Anwar lên nắm quyền, Biển Đông sẽ dậy sóng? – Phần I


Theo bài viết trên trang mạng cn.apdnews.com mới đây, khoảng 17h ngày 24/11/2022 (theo giờ địa phương), ông Anwar Ibrahim đã chính thức tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng thứ 10 của Malaysia tại Cung điện Quốc gia Malaysia (Istana Negara). Anwar đã đạt được nguyện vọng trở thành thủ tướng sau cuộc tổng tuyển cử lần thứ 15 ở Malaysia, tình thế bế tắc chính trị nhiều ngày với “Quốc hội treo” đã chấm dứt, chính phủ mới của Anwar đã được công bố.

Thông qua các cuộc phỏng vấn các quan chức, học giả, chính trị và doanh nhân Malaysia là những người thân thuộc với Anwar, tìm hiểu con đường đi lên đỉnh cao danh vọng đầy gập ghềnh của ông, phân tích đặc điểm tính cách của ông, cũng như xem xét toàn diện tình hình đối nội và đối ngoại hiện tại ở Malaysia, bài viết đã có đánh giá về những thách thức trong nước của Chính phủ Thủ tướng Anwar, cũng như những xu hướng ngoại giao mới, đặc biệt là trong quan hệ Malaysia-Trung Quốc và Malaysia-Mỹ.

Anwar: Nhà cải cách vô cùng kiên trì

Anwar vừa mới trở thành tân Thủ tướng Malaysia. Tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra sau gần 30 năm kể từ khi ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng và là người được cho là sẽ kế nhiệm vị trí thủ tướng năm 1993, và sau 24 năm kể từ khi Anwar thúc đẩy phong trào cải cách “Ngọn lửa không bao giờ tắt” (Refomasi Movement) và thành lập đảng Công Lý Nhân Dân (ban đầu là đảng Công Lý Quốc Gia) năm 1998. Nhìn lại con đường lên đến đỉnh cao của Anwar, có thể thấy đầy những khúc quanh, gập ghềnh và khó khăn. Điều đó cũng thể hiện phần lớn tính cách khác biệt của Anwar.

Thứ nhất, Anwar có tinh thần dân tộc và năng nổ tham gia phong trào xã hội. Anwar, 75 tuổi, sinh ra ở Penang, tốt nghiệp Khoa Nhgiên cứu Mã Lai của Đại học Malaya. Năm 1971, ông là người đồng sáng lập Phong trào Thanh niên Hồi giáo Malaysia, phong trào này tập trung vào các vấn đề như tình trạng nghèo khổ và nạn đói ở các vùng nông thôn Malaysia. Nhìn lại sự nghiệp chính trị của Anwar, có thể thấy ông bắt đầu sự nghiệp với các phong trào xã hội và lãnh đạo sinh viên tham gia biểu tình. Năm 1974, ông bị bắt giam 20 tháng vì vi phạm Đạo luật An ninh Nội bộ. Sau khi được thả tự do, ông trở nên nổi tiếng trong giới phong trào xã hội và được Thủ tướng Malaysia lúc đó là Mahathir đánh giá cao.

Chung Đại Vinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Malaysia của Đại học Hoa Kiều, tin rằng Anwar có tư tưởng rất cấp tiến và làm việc hiệu quả trong những năm đầu sự nghiệp. Đại học Malaya mà ông theo học nổi tiếng với tư tưởng tiến bộ và bầu không khí tự do hóa và dân tộc hóa mạnh mẽ. Anwar là một người Hồi giáo giỏi điều phối, cân bằng giữa các lực lượng khác nhau và giành được sự ủng hộ của nhiều người.

Thứ hai, Anwar có sự kiên trì hiếm có cùng tinh thần đổi mới. Kể từ khi được Mahathir mời tham gia đảng Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất (UMNO) năm 1982, Anwar bắt đầu những năm tháng bất bình và thù hận với Mahathir, đồng thời cũng mở ra những thăng trầm của ông trên chính trường Malaysia. Năm 1993, Anwar là người được thế giới bên ngoài tin là sẽ kế vị Mahathir, nhưng cuộc Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã khiến mối quan hệ giữa Anwar và Mahathir rạn nứt và “sự cố Anwar” đã xảy ra vào năm đó, khi ông bị bãi chức vụ và bị trục xuất khỏi UMNO. Năm 2004, một năm sau khi Mahathir thôi giữ chức Thủ tướng, Anwar được trả tự do. Ông đã lãnh đạo đảng Công lý Nhân dân đối lập đạt được kết quả tích cực trong cuộc tổng tuyển cử năm 2008, nhưng sau đó lại bị buộc tội và bị kết án 5 năm tù.

Các học giả ở Malaysia nhìn chung đều cho rằng Anwar là người có năng lực, giỏi toàn diện, chính điều này đã khiến Mahathir hết sức cảnh giác khi ông ở thời kỳ đỉnh cao và lập được nhiều thành tựu to lớn. Sự nghiệp chính trị của Anwar có những giai đoạn thăng trầm, nhưng ông đã có thể trở lại chính trường sau hai lần bị cầm tù. Điều đó cho thấy ông có một ý chí và quyết tâm hiếm có.

Cát Hồng Lượng, Giám đốc Viện Nghiên cứu Malaysia thuộc Đại học Dân tộc Quảng Tây, tin rằng tinh thần hoạt động phong trào xã hội của Anwar đã khiến ông trở thành một nhà lãnh đạo cải cách nổi tiếng trong chính trường Malaysia. Dù Anwar nhiều lần đối mặt với các cáo buộc, bản án và nhà tù, nhưng ông vẫn lãnh đạo đảng Công lý Nhân dân và liên minh của đảng này tham gia các kỳ tổng tuyển cử năm 2008, 2013 và 2018 với khẩu hiệu “cải cách”, nhắm vào nạn tham nhũng trong chính phủ và đảng phái và kêu gọi cải cách. Chắc chắn, những điều này thể hiện đầy đủ tinh thần chiến đấu và sự kiên cường của Anwar với tư cách là một nhà lãnh đạo ủng hộ cải cách trong nền chính trị Malaysia.

Anwar có tính cách hòa nhã và kiến thức uyên thâm nên luôn được lòng dân, đồng thời cũng thẳng thắn và vui vẻ. Trong chuyến thăm Trung Quốc năm 1994, ông đã được tặng tác phẩm thư pháp “Tất cả chúng ta là một gia đình”. Anwar đồng tình với quan niệm này và treo bức thư pháp trong văn phòng làm việc của mình, hàm ý rằng tất cả các dân tộc ở Malaysia, bao gồm người Mã Lai, người Hoa và người Ấn Độ, là một gia đình. Trong lần tranh cử thủ tướng mới đây, ông lại một lần nữa đề xuất “tất cả chúng ta là một gia đình”. Câu nói này đã trở thành khẩu hiệu của ông.

Hứa Lợi Bình, nhà nghiên cứu tại Viện Chiến lược châu Á-Thái Bình Dương và Toàn cầu thuộc Viện Khao học Xã hội Trung Quốc, cho rằng không nên đánh giá thấp Anwar, ông ấy dám đấu tranh và biết cách thỏa hiệp. Dù mối quan hệ của ông với Mahathir và Azmin Ali (cựu Bộ trưởng công nghiệp và Thương mại quốc tế) đầy quý trọng và thù hận, nhưng Anwar vẫn cùng tranh cử với Mahathir năm 2018, hay việc thành lập nội các của Thủ tướng Anwar mới đây cũng là kết quả của sự thỏa hiệp với Liên minh Mặt trận Quốc gia (BN).

Tình hình nội bộ Malaysia đối mặt với 3 vấn đề lớn

Anwar đã tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng thứ 10 của Malaysia, nhưng mâu thuẫn đằng sau “Quốc hội treo” và thế bế tắc chính trị của chính phủ vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nhà Nghiên cứu Cát Hồng Lượng tin rằng điều này sẽ khiến Chính quyền Anwar phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức về các vấn đề nội bộ và cần xử lý tốt ba mối quan hệ.

Đầu tiên, chính phủ được thành lập trong bối cảnh phải ổn định tình hình chính trị và xử lý các mối bất bình của các đảng phái và liên minh chính trị trong chính trường Malaysia hiện tại.

Người đứng đầu nhà nước Malaysia, Sultan Abdullah (Quốc vương Malaysia), là nhân vật then chốt khi xảy ra tình trạng hỗn loạn chính trị. Ông kỳ vọng Malaysia sẽ thành lập một chính phủ ổn định, thống nhất và các nghị sĩ Quốc hội sẽ hợp tác cùng nhau để phát triển đất nước và phục hồi kinh tế. Quốc vương Malaysia đã nhắc nhở tất cả các bên sau cuộc tổng tuyển cử lần thứ 15 rằng “không bên nào giành chiến thắng tất cả, cũng không có bên nào thua” trong cuộc tổng tuyển cử lần này, do đó các bên phải tái hợp tác vì lợi ích của đất nước và người dân.

Cũng với mục tiêu này, Anwar đã phát biểu rằng miễn là các nghị sĩ đối lập chấp nhận các nguyên tắc cơ bản về quản trị tốt và không tham nhũng để duy trì sự ổn định, tham gia thành lập chính phủ liên minh và chăm lo cho người dân, ông sẵn sàng chấp nhận các đảng phái chính trị khác, bao gồm cả Liên minh Quốc gia (PN), tham gia chính phủ. Tuy nhiên, như đã biết, Malaysia vẫn đang trong giai đoạn chuyển giao chính trị then chốt, sự đa dạng và chia rẽ giữa các đảng phái chính trị vẫn tồn tại. Trong hoàn cảnh như vậy, Anwar không đặt kỳ vọng quá cao dành cho chính phủ liên minh.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 10/01/2023

Triển vọng kinh tế ASEAN trong năm 2023 – Phần cuối


Tăng trưởng không đồng đều

Các nền kinh tế khu vực dự kiến sẽ tăng trưởng không đồng đều trong năm 2023, căn cứ vào mức độ phục hồi của các lĩnh vực then chốt như sản xuất điện tử và trao đổi hàng hóa. Maybank dự báo tăng trưởng trong ASEAN-5 nói chung đạt 4,3%, nhưng tăng trưởng ở Malaysia (4%), Thái Lan (3,2%) và Singapore (1,5%) nói riêng lại dưới mức trung bình.

Trong khi đó, ông Cochrane chỉ ra rằng Philippines là quốc gia có thành tích tốt nhất trong ASEAN, nhờ nhu cầu nội địa đang bị dồn nén, cũng như gói kích thích tài chính dành cho y tế công cộng, cơ sở hạ tầng và giáo dục. Việt Nam được dự đoán sẽ đứng ở vị trí thứ hai trong khu vực, nhờ hoạt động kinh tế mạnh mẽ ở Mỹ – đối tác thương mại then chốt của Việt Nam. Yếu hơn là Thái Lan, nước sẽ tiếp tục chờ đợi sự trở lại của lượng lớn khách du lịch Trung Quốc, vốn vẫn chưa thể rời khỏi Đại lục. Malaysia và Thái Lan sẽ tăng trưởng chậm hơn so với các quốc gia khác do giá cả hàng hóa dự kiến giảm. Nền kinh tế nhỏ, mở cửa của Singapore sẽ tiếp tục tăng trưởng như với tốc độ chậm cho đến khi nhu cầu toàn cầu được cải thiện vào cuối năm 2023.

Cuối cùng, mặc dù các nhà phân tích UOB dự báo tăng trưởng ở các nền kinh tế lớn của ASEAN chậm lại, xuống dưới 5% trong năm 2023, nhưng họ cũng lưu ý rằng điều này phù hợp với xu hướng tăng trưởng chậm hơn nói chung, như ở các thị trường phát triển Mỹ và châu Âu.

Tương tự, các nhà kinh tế Maybank lạc quan coi khu vực Đông Nam Á là “bến cảng phòng thủ” trong năm 2023, và IMF dự báo tăng trưởng GDP cho các nền kinh tế ASEAN-5 vẫn cao hơn nhiều so với mức dự kiến 2,7% đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung trong cùng thời kỳ.

Công ty dịch vụ chuyên nghiệp Aon gần đây phát hiện ra rằng lương ở khu vực Đông Nam Á trong năm 2023 có thể tăng đáng kể so với năm 2022. Theo một cuộc khảo sát được công bố ngày 8/12, mức tăng trung bình có thể từ 4,7% ở Singapore lên 7,9% ở Việt Nam, do ngành khách sạn, bán lẻ và thương mại điện tử thúc đẩy. Ngược lại, lương ở những nơi khác nhìn chung sẽ tăng vừa phải, như 4,1% ở Australia, 4,7% ở Anh và 5,1% ở Mỹ.

Tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực cũng được cho là sẽ ổn định hoặc giảm. Maybank dự kiến tỷ lệ thất nghiệp trung bình ở Indonesia giảm xuống 5,3% trong năm 2023, từ mức 5,8% năm 2022. Ở Malaysia, tỷ lệ thất nghiệp dự kiến giảm xuống 3,5%, từ mức 3,8%; ở Philippines giảm xuống 5% từ 5,5%; và ở Thái Lan giảm xuống 1,2% từ 1,4%. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp năm 2023 có thể tăng lên 2,4%, từ 2,3% năm 2022, nhưng vẫn cho thấy sự cải thiện so với mức 3% năm 2021. Tương tự, tỷ lệ thất nghiệp ở Singapore có thể tăng 2,2% trong năm 2023, từ 2,1% năm 2022, nhưng vẫn tốt hơn mức 2,7% được ghi nhận trong năm 2021.

Trung Quốc – nhân tố lớn khó tiên liệu

Theo báo cáo của Ngân hàng Standard Charter được công bố ngày 8/12, sự phục hồi tăng trưởng của ASEAN có thể tiếp tục trong năm 2023, nhờ sự cải thiện trong các lĩnh vực như tiêu dùng trong nước và du lịch. Báo cáo đánh giá: “Các nền kinh tế ASEAN mở cửa và theo hướng thương mại hơn (như Singapore) có thể phải đối mặt với áp lực dẫn tới sự sụt giảm trong hoạt động xuất khẩu khi tăng trưởng toàn cầu suy yếu trong nửa đầu năm 2023”.

Đặc biệt, các nhà quan sát đang theo dõi chặt chẽ những diễn biến ở Trung Quốc gây ra rủi ro đáng kể cho những dự báo tích cực lẫn tiêu cực về ASEAN. Trung Quốc dường như không đạt được mục tiêu tăng trưởng 5,5% trong năm 2022, vì chính sách “Zero-COVID” nghiêm ngặt đã gây ra tình trạng bất ổn trong các ngành như bất động sản và công nghệ.

Ông Cochrane đánh giá: “Chu kỳ điện tử trên toàn cầu suy yếu khi nhu cầu của người tiêu dùng ở các nền kinh tế phát triển đã chuyển từ hàng hóa sang dịch vụ… Sự yếu kém trong lĩnh vực điện tử có thể kéo dài trong phần lớn năm 2023, và lĩnh vực này có khả năng phục hồi vào cuối năm 2023 hoặc đầu năm 2024. Xuất khẩu nội địa phi dầu mỏ của Singapore đã tăng trưởng âm trong tháng 11/2022 – lần suy giảm đầu tiên trong hai năm – do số lượng lô hàng điện tử và phi điện tử đều giảm so với cùng kỳ năm 2021”.

Trong khi đó, bà Ling nhận định: “Do có vai trò quan trọng đối với các nền kinh tế châu Á và đặc biệt là ASEAN, nên nền kinh tế và thị trường Trung Quốc sẽ có tác động dây chuyền đối với sản xuất, thương mại, đầu tư và cả mức độ tin cậy… Cũng không nên đánh giá thấp sự phụ thuộc vào Trung Quốc như một phần của chuỗi cung ứng sản xuất – đặc biệt là điện tử – và như một thị trường xuất khẩu then chốt cũng như nguồn du khách quan trọng”.

Tuy nhiên, các nhà phân tích của Maybank lưu ý rằng thương mại nội khối ASEAN có thể bù đắp cho nhu cầu yếu hơn ở các thị trường cuối cùng khác, trong khi các nhà đầu tư đang tiếp tục chuyển các chuỗi cung ứng sản xuất từ Trung Quốc sang ASEAN. Họ cũng nói thêm rằng yếu tố lớn khó tiên liệu trong năm 2023 là sự mở cửa lại của Trung Quốc, điều có thể bù đắp phần nào sự suy giảm ở Mỹ và châu Âu, và giúp tăng cường triển vọng kinh tế của ASEAN.

Mặc dù tiến sỹ Khor từ AMRO cho rằng sự suy giảm ở Trung Quốc và xu hướng giảm trong ngành điện tử dự kiến sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của khu vực, nhưng ông cũng nói thêm rằng nền kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ dần phục hồi trong nửa đầu năm 2023 và lĩnh vực điện tử có thể phục hồi khi nhu cầu ở các thị trường lớn phục hồi vào năm 2024.

Tiến sỹ Khor nhận định: “Sự giảm sút về xuất khẩu có thể được bù đắp bởi sự tăng mạnh về nhu cầu trong nước khi các biện pháp liên quan đến dịch bệnh tiếp tục được loại bỏ do số ca nhiễm tiếp tục giảm. Việc nối lại hoạt động du lịch và lữ hành quốc tế, cũng như việc thương mại dịch vụ tiếp tục tăng trưởng, sẽ làm giảm tốc độ chậm lại của xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt đối với các quốc gia phụ thuộc nhiều vào du lịch như Thái Lan và Campuchia”.

Nguồn: TLTKĐB – 09/01/2023

Triển vọng kinh tế ASEAN trong năm 2023 – Phần đầu


Tác giả bài viết trên báo The Business Times số ra gần đây nhận định khu vực Đông Nam Á dự kiến sẽ mở rộng quá trình phục hồi kinh tế vào năm 2023, với tốc độ tăng trưởng vượt xa các khu vực còn lại của thế giới, ngay cả khi lạm phát gia tăng và những rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến những dự báo về tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Khi được hỏi kinh tế khu vực đã thay đổi như thế nào trong quý cuối cùng của năm 2022, ông Steve Cochrane, nhà kinh tế trưởng phụ trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương của công ty dịch vụ tài chính Moody’s Analytics, cho biết những dự báo đã giảm xuống mức vừa phải. Ông cho biết: “Những nhân tố bất lợi là: thương mại khu vực và toàn cầu suy giảm trong những tháng gần đây, lạm phát ở phần lớn khu vực Đông Nam Á cơ bản vẫn cao và nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục hoạt động kém”.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo GDP của các nền kinh tế thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)-5 (bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam) tăng trưởng 4,9% theo giá trị không đổi vào năm 2023. Tăng trưởng ước tính trong Báo cáo triển vọng khu vực mới nhất, được công bố hồi tháng 10/2022, đã giảm so với mức 5,9% trong dự báo hồi tháng 4/2022. Trong khi đó, trong đánh giá triển vọng tháng 10/2022, Văn phòng nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) đã hạ dự báo tăng trưởng GDP thực xuống 4,9% đối với tất cả các nước ASEAN – từ mức 5,2% trong đánh giá tháng 7. Bên cạnh đó, IMF tháng 10/2022 đã nâng dự báo lạm phát của ASEAN-5 lên 4,4% trong năm 2023, so với mức 3,2% hồi tháng 4, trong khi AMRO nâng dự báo lạm phát trên toàn ASEAN lên 4% cho năm 2023, từ mức 3,2% trong dự báo trước đó.

Trong bối cảnh lạm phát leo thang, nhà kinh tế trưởng Selena Ling của Ngân hàng OCBC cho biết các thị trường mới nổi có thể được chú ý trong năm 2023, khi tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ trong khu vực chậm lại. Tăng trưởng cũng bị đe dọa bởi những lo ngại về sự chậm lại của nền kinh tế Trung Quốc – thị trường thương mại khổng lồ của khu vực – và sự suy giảm trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là hàng điện tử. Tuy nhiên, sự hỗ trợ về cơ cấu và chính sách có nghĩa là nền kinh tế ASEAN vẫn có thể phát triển vượt trội so với các khu vực khác của thế giới – và các nhà quan sát hy vọng khả năng mở cửa trở lại của Trung Quốc sẽ nâng cao hơn nữa triển vọng của khu vực.

Nhiều đợt tăng lãi suất sắp tới

Giá hàng hóa và tiêu dùng tăng đột biến trong năm 2022, do sự mất cân đối cung-cầu liên quan đến đại dịch COVID-19 kéo dài cùng với những gián đoạn do cuộc xâm lược Ukraine của Nga bắt đầu hồi tháng 2/2022 gây ra. Tăng trưởng chậm hơn và lạm phát gia tăgn đã làm tăng áp lực đối với các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là khi Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ (FED) có quan điểm “diều hâu” tạo ra xu hướng tăng lãi suất mạnh mẽ trên toàn thế giới.

Ông Cochrane cho rằng chính sách tiền tệ trong khu vực có thể sẽ bị thắt chặt thêm khi các ngân hàng trung ương hành động để kiềm chế lạm phát và hỗ trợ đồng tiền quốc gia. Ông nhận định: “Chính sách tiền tệ sẽ tăng với tốc độ vừa phải trong quý I/2023. Các ngân hàng trung ương sẽ chỉ nới lỏng trở lại khi cả lạm phát tổng thể lẫn giá lương thực bắt đầu giảm”.

Trong khi đó, bà Ling của OCBC cho rằng còn quá sớm để nói đến thời kỳ đỉnh điểm của việc thắt chặt chính sách tiền tệ ở ASEAN, đặc biệt là nếu khu vực này phải đối mặt với dòng vốn chảy ra hay FED tiếp tục tăng lãi suất. Bà cho rằng sẽ có thêm một vài đợt tăng lãi suất nữa từ các ngân hàng như Ngân hàng Indonesia và Ngân hàng Negara Malaysia, và nhiều khả năng sẽ có một đợt thắt chặt tỷ giá hối đoái nữa từ Cơ quan tiền tệ Singapore tại kỳ đánh giá chính sách tiếp theo vào tháng 4/2023. Ngân hàng Thái Lan đã nâng lãi suất lên tổng số 75 điểm cơ bản kể từ tháng 8/2022. Kỳ đánh giá chính sách tiếp theo của ngân hàng này sẽ diễn ra vào ngày 25/1 tới, trong đó các nhà kinh tế dự đoán sẽ có một đợt tăng lãi suất nữa.

Bà Ling cũng chỉ rõ áp lực phải làm nhiều hơn nữa để giải quyết các vấn đề về chi phí sinh hoạt thông qua chính sách tài khóa, chẳng hạn như khả năng trợ cấp cho các nhóm thu nhập thấp ở Malaysia dưới thời nhà lãnh đạo mới Anwar Ibrahim. Tuy nhiên, nhà kinh tế trưởng AMRO Khor Hoe Ea lưu ý rằng sự phục hồi kinh tế đang diễn ra đã thúc đẩy hầu hết các quốc gia tăng cường các làn sóng hỗ trợ tài chính trước đó. Ông nhận xét: “Mặc dù một số nền kinh tế gần đây đã triển khai các biện pháp hỗ trợ chính sách tài khóa để giảm nhẹ tác động của giá lương thực và năng lượng tăng cao đối với chi phí sinh hoạt, nhưng những biện pháp này được cho là tạm thời và nhỏ hơn về quy mô so với các gói kích thích kinh tế đã được mở rộng trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19”.

Quả thực, tỷ lệ lạm phát ở ASEAN vẫn được dự kiến tiếp tục thấp hơn so với những nơi khác. Theo Ngân hàng Maybank, ngoại trừ Myanmar, lạm phát tổng thể dự kiến từ 3% ở Malaysia và Thái Lan đến 5% ở Lào và 6% ở Singapore vào năm 2023. Các nhà phân tích cũng tin rằng lạm phát có thể đã đạt đỉnh ở các thị trường ASEAN như Singapore, Thái Lan và Indonesia.

Trong khi lạm phát vẫn tăng cao so với tình hình trước dịch bệnh, giá cả có xu hướng giảm từ mức cao của năm 2022 – AMRO dự kiến sẽ giảm từ 7,6% năm 2022 xuống 4% năm 2023 ở ASEAN nói chung. Mức lạm phát dự kiến cho năm 2023 ở ASEAN cũng thấp hơn so với mức trung bình toàn cầu mà IMF ước tính là 6,5% trong năm 2023.

Như vậy, hầu hết các ngân hàng trung ương ASEAN không mạnh tay như FED trong việc thắt chặt chính sách tiền tệ và tăng lãi suất, trừ Philippines và Singapore. Các nhà phân tích của Maybank nhận định: “Việc thắt chặt chính sách tiền tệ ở mức vừa phải hơn ở ASEAN sẽ hạn chế cú sốc về lãi suất đối với chi tiêu tiêu dùng và đầu tư kinh doanh”. Tương tự, các nhà phân tích của Ngân hàng UOB lưu ý trong đánh giá triển vọng hàng quý rằng lạm phát thấp hơn và việc thắt chặt chính sách mềm mỏng hơn của các ngân hàng trung ương trong khu vực sẽ gia tăng tính linh hoạt cho quá trình mở rộng kinh tế.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 09/01/2023

Trung Quốc triển khai “ngoại giao sầu riêng” với Việt Nam và Philippines


Theo trang thenweslens.com ngày 15/2, do sầu riêng được người dân Trung Quốc ưa thích, nên để tăng cường mối quan hệ với ASEAN, từ năm 2022, Bắc Kinh đã phá vỡ sự độc quyền của sầu riêng Thái Lan và Malaysia, mở rộng nhập khẩu loại hoa quả này từ cả Việt Nam và Philippines. Các chuyên gia cho rằng chính sách “ngoại giao sầu riêng” của Trung Quốc đã thu hẹp không gian thu lợi của Malaysia và Thái Lan, trong khi với Việt Nam và Philippines, những quốc gia có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, người nông dân trồng trái cây có thể gặp rủi ro địa chính trị.

Sầu riêng của Philippines và Việt Nam được thị trường Trung Quốc ưa chuộng, nhưng theo các học giả, Malaysia và Thái Lan không quan tâm vì họ hiểu rằng việc phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc sẽ gây nguy hiểm cho toàn bộ các ngành nếu bị Bắc Kinh bóp nghẹt do tranh chấp chính trị.

Tờ South China Morning Post (Hong Kong) ngày 15/2 cho biết thời gian dài trước đây, Trung Quốc chỉ cho phép nhập khẩu sầu riêng tươi từ Thái Lan nên chỉ nước này được hưởng lợi. Bên cạnh đó, sầu riêng đông lạnh của Malaysia cũng chiến vị trí trong các khách hàng cao cấp ở Trung Quốc. Tuy nhiên, tình trạng độc quyền này đã hoàn toàn biến mất vì vào tháng 9/2022, Bắc Kinh đã đồng ý nhập khẩu sầu riêng trồng tại 51 vườn trái cây và sản phẩm từ 25 nhà máy đóng gói sầu riêng sang Trung Quốc.

Ngoài ra, việc Trung Quốc và Philippines ký kết thỏa thuận song phương trong chuyến thăm của Tổng thống Ferdinand Marcos Jr. vào đầu tháng 1/2023 đã mở ra cánh cửa xuất khẩu sầu riêng của Philippines lần đầu tiên sang Trung Quốc.

Thành phố Davao, cách thủ đô Manila hơn 900 km về phía Đông Nam, được mệnh danh là “Thủ phủ sầu riêng của Philippines”. Sầu riêng của địa phương này chiếm gần 80% sản lượng cả nước. Do phần lớn vụ thu hoạch đã được các nhà nhập khẩu Trung Quốc đặt hàng nên ngay cả nguồn cung sầu riêng cho địa phương hiện cũng bị thiếu hụt.

Các chuyên gia cho rằng do ngày càng có nhiều người Trung Quốc yêu thích hương vị của sầu riêng cũng như do quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc, nên Bắc Kinh càng muốn tăng cường quan hệ với ASEAN. Từ năm 2022, Trung Quốc đã mở cửa thị trường để nhập khẩu sầu riêng từ nhiều nước hơn.

Tuy nhiên, khi người trồng và kinh doanh trái cây của Việt Nam và Philippines đang được hưởng lợi vì Bắc Kinh mở cửa thị trường, thì Malaysia và Thái Lan, vốn khó giữ thế độc quyền, có thể đang đối mặt với những mối lo tiềm ẩn.

Phó Giáo sư Lý Minh Giang tại Trường Quan hệ quốc tế của Đại học công nghệ Nanyang (Singapore), cho biết Đông Nam Á và Trung Quốc có quan hệ kinh tế và thương mại chặt chẽ và sầu riêng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong trao đổi kinh tế và thương mại song phương, nhưng “ngoại giao sầu riêng” dự kiến sẽ gây ra một số ảnh hưởng chính trị. Sự trao đổi kinh tế và thương mại chặt chẽ cho thấy tầm quan trọng của việc duy trì quan hệ ngoại giao ổn định.

Andrea Chloe Wong, cựu chuyên gia phân tích cấp cao tại Viện Dịch vụ đối ngoại Philippines, cho rằng sầu riêng của Philippines có thể mang hàm ý chính trị trong quan hệ song phương và được Trung Quốc dùng làm con bài thương lượng, chưa kẻ trước đây Trung Quốc đã cấm nhập khẩu chuối từ Philippines vì lý do chính trị.

Tạ Khản Khản, Trợ lý Giáo sư tại Khoa Đông Nam Á của Học viện ngoại ngữ Đại học Bắc Kinh, cũng nhận định rằng do Philippines, Việt Nam và Trung Quốc đều liên quan đến tranh chấp chủ quyền Biển Đông, nên nếu Bắc Kinh quyết trừng phạt kinh tế thương mại hai nước, Philippines và Việt Nam có thể khó cản. Nếu Trung Quốc không hài lòng và đột ngột dừng nhập khẩu sầu riêng, người Philippines sẽ giải quyết sầu riêng như thế nào?

Nguồn: TKNB – 17/02/2023

Quan hệ Trung Quốc – Philippines và bài học với các quốc gia Đông Nam Á


Trang mạng aspistrategist.org.au của Viện Chính sách Chiến lược Australia ngày 13/2 đăng bài viết đánh giá về những thay đổi trong quan hệ Trung Quốc và Philippines thời gian gần đây và một số bài học cho các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong quan hệ với Bắc Kinh.

Gần 4 năm sau, việc Trung Quốc không ngừng bắt nạt và áp dụng chính sách “bên miệng hố chiến tranh” đối với Philippines và các quốc gia Đông Nam Á khác liên quan tới những yêu sách mâu thuẫn nhau và những đặc quyền trên Biển Đông đã phá hỏng thời kỳ “đầy thiện ý” của ông Duterte dành cho Bắc Kinh và kéo Manila lại gần hơn với Washington. Trước khi đặt chân đến Bắc Kinh, ông Marcos Jr. thừa nhận rằng “các vấn đề hàng hải… không phải là tất cả mối quan hệ giữa hai nước” nhưng nhấn mạnh rằng xung đột ở Biển Đông vẫn là một “mối quan ngại đáng kể”.

Áp dụng nghệ thuật “xoay trục” địa chính trị, Chủ tịch Tập Cận Bình chủ yếu tránh né xung đột Biển Đông trong cuộc gặp với ông Marcos Jr. và tiếp tục đưa ra những hứa hẹn như trước đây về việc hai nước tăng cường phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Một loạt sáng kiến được đưa ra trong cuộc gặp, bao gồm các dự án phát triển dầu khí chung, đầu tư năng lượng tái tạo, tăng cường thương mại và một đường dây nóng giải quyết khủng hoảng để giải quyết các tranh chấp hàng hải.

Hành trình điều chỉnh hướng tới hòa bình trên biển là cơ sở thúc đẩy Bắc Kinh quyết định khôi phục quan hệ với Manila và các nước láng giềng khác bằng cách quay trở lại câu chuyện cũ về không can thiệp và “hợp tác” liên châu Á. Các hành động và tuyên bố gần đây, như cam kết rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ sử dụng sức mạnh quân sự để “bắt nạt” các quốc gia nhỏ hơn, cho thấy Trung Quốc thừa nhận chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ của họ nhằm thống trị Biển Đông đã gây hại nhiều hơn là có lợi. Bằng cách chấp nhận “các kết quả hòa bình”, Bắc Kinh tìm cách biến mình thành một lực lượng tốt trong khu vực, một cường quốc có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo các vấn đề châu Á được giải quyết bởi các nước châu Á – chứ không phải những nước ngoài khu vực “hung hăng” như Mỹ. Khi làm như vậy, Trung Quốc “tử tế và ôn hòa hơn” này cam kết hợp tác chứ không phải đối đầu, hài hòa chứ không hiếu chiến, để theo đuổi “kết quả đôi bên cùng có lợi”. Theo tờ Thời báo Hoàn Cầu, những kết quả này sẽ mở ra một “thời kỳ hoàng kim mới” trong quan hệ Trung Quốc – Philippines. Nhưng như người ta vẫn nói, “không phải tất cả những thứ lấp lánh đều là vàng”. Nếu chính quyền của ông Marcos Jr. kiên quyết duy trì các yêu sách của mình trên Biển Đông bất chấp chủ nghĩa trả đũa của Trung Quốc, Manila không thể quá thoải mái với cách tiếp cận “hợp tác” của Bắc Kinh.

Việc kiểm soát “các vùng biển gần” mang lại nhiều lợi ích cho phép Trung Quốc hiện thực hóa khái niệm chống tiếp cận/chống xâm nhập, củng cố triển khai sức mạnh trên khắp chuỗi đảo thứ nhất và nâng cao khả năng chống can thiệp đối với Washington và các đồng minh, đồng thời mở rộng vùng đệm an ninh để bảo vệ Trung Quốc. Ngoài ra, quyền kiểm soát “các vùng biển gần” (hay Biển Đông) hợp pháp hóa việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và chưa được khai thác, đồng thời bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng mà giới lãnh đạo Trung Quốc tin rằng có thể bị đe dọa trong một cuộc xung đột với phương Tây.

Tuy nhiên, sau một thập kỷ cải tạo các rạn san hô đang tranh chấp thành các căn cứ quân sự, các màn phô diễn thể hiện chủ quyền, đánh chìm tàu các tàu cá, quấy rối các tàu khảo sát và tiếp tế, rùm beng tuyên truyền các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với 9/10 Biển Đông, chiến dịch “kiểm soát biển” của Trung Quốc đã phải trả giá đắt về địa chiến lược.

Theo báo cáo khảo sát Tình hình Đông Nam Á năm 2022, đánh giá quan điểm của các nhà lãnh đạo Đông Nam Á về một loạt vấn đề chính sách khu vực, chỉ 26,8% số người được hỏi tin tưởng Trung Quốc “làm điều đúng đắn”. Trong số những người được hỏi không tin tưởng Trung Quốc, có một nửa cho rằng Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự của mình để đe dọa lợi ích và chủ quyền của quốc gia họ”. Đồng thời, một số nước ASEAN đã tự tách mình khỏi Bắc Kinh bằng cách tăng cường quan hệ đối tác trong ASEAN và với “Nhóm Bộ tứ”. Các quốc gia khác, như Malaysia đã tăng ngân sách quốc phòng để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông.

Sự kiểm soát của Trung Quốc đối với Biển Đông không phải là một kết luận có thể đoán trước. Bắc Kinh đã điều chỉnh tính toán rủi ro khi cái giá phải trả của việc bị quốc tế lên án lớn hơn lợi ích của hành động hiếu chiến trên biển. Philippines, các quốc gia ASEAN và Nhóm “Bộ tứ” có thể tiếp tục áp đặt và báo hiệu cái giá mà Trung Quốc sẽ phải trả đó. Và điều nay sẽ cần tới việc triển khai sức mạnh cứng, bao gồm: máy bay phản lực, tàu hộ tống, tàu tuần tra, tàu tuần duyên và tên lửa.

Các đối tác Nhóm “Bộ tứ” nên bắt đầu đưa Philippines (và các quốc gia sẵn sàng khác) tham gia Sáng kiến Đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về nhận thức trong lĩnh vực hàng hải để cùng đưa ra các nhận thức chung, chia sẻ thông tin và các giải pháp có mục tiêu. Các nhà lãnh đạo Nhóm “Bộ tứ” cũng nên đưa ra các chương trình kinh tế để đối phó với các đề xuất của Trung Quốc.

Hiện tại, quyết định của ông Marcos Jr. trong tháng này về việc cho phép Mỹ tạm thời và luân phiên tiếp cận 4 căn cứ quân sự và nối lại các cuộc tuần tra chung trên biển ở Biển Đông là một quyết định khôn ngoan vì điều này sẽ giúp tăng cường khả năng phòng thủ của Philippines, khả năng tương tác với các đồng minh và cam kết chống lại hành vi hung hăng trên biển của Bắc Kinh. Cần phải có nhiều sự hợp tác và phối hợp hơn nữa, mặc dù Marcos Jr. đã nói rõ rằng mối quan hệ quân sự đang phát triển giữa Mỹ và Philippines không gây ra mối đe dọa trực tiếp nào đối với Trung Quốc, cho dù đó rõ ràng là một phản ứng trực tiếp đối với hoạt động quân sự hóa và hủy hoại Biển Đông của Trung Quốc.

Nguồn: TKNB – 17/02/2023

Ý nghĩa quan trọng của việc kết nối đường sắt Trung Quốc – Việt Nam – Phần cuối


Bước nhảy vọng thương mại Trung – Việt và sự hòa nhập vào mạng lưới sản xuất

Động lực cơ bản hơn để thúc đẩy Việt Nam nhanh chóng kết nối đường sắt là mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam ngày càng giống với các vùng ven biển Trung Quốc trước đây. Sau va chạm thương mại Trung-Mỹ, tam giác thương mại mới Trung Quốc-Việt Nam-Mỹ dần hình thành và hội nhập sâu vào mạng lưới sản xuất châu Á.

Tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam trong GDP đã tăng từ 13% cách đây 10 năm lên hơn 17% hiện nay, hàng năm kim ngạch bình quân đầu tư nước ngoài được Việt Nam thu hút chiếm 5% GDP, là tỷ lệ cao nhất trong khu vực Đông Á từ trước đến nay. Một số tổ chức xếp hạng tín dụng cũng nâng hạng Việt Nam lên BB, gọi là “ngôi sao mới nổi”. Tính đến tháng 10/2022, vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đạt gần 270 tỷ USD. Thậm chí, Ngân hàng thế giới (WB) dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm nay sẽ đạt 7,2%, cao nhất khu vực Đông Á.

Tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với Trung Quốc là yếu tố bên ngoài quan trọng nhất mang lại thành tựu nổi bật của Việt Nam trong những năm qua. Ví dụ, dữ liệu của Trung Quốc cho thấy năm 2021, kim ngạch thương mại song phương đạt 230,2 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2020. Tính đến năm 2021, tổng vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam là 15,9 tỷ USD. Tính đến hết tháng 2/2022, giá trị hợp đồng dự án lũy kế của doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam là 71,7 tỷ USD.

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, năm 2021, kim ngạch thương mại song phương là 165,8 tỷ USD, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Xuất khẩu sang Trung Quốc năm 2021 đạt 55,9 tỷ USD, gấp 37 lần so với năm 2002.

Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là điện thoại di động và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, thiết bị cơ khí và linh kiện khác, máy ảnh, máy quay video và linh kiện, các loại sợi dệt; các mặt hàng nhập khẩu chính từ Trung Quốc là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, thiết bị cơ khí và những linh kiện khác, vải các loại, điện thoại di động và linh kiện, sản phẩm nhựa.

Nhìn nhận từ tác động của đại dịch COVID-19 và kinh tế thế giới suy thoái, tốc độ tăng trưởng cao của thương mại Trung-Việt là điều rất hiếm. Cục diện đó cũng phản ánh chiều sâu và bề rộng của sự hợp tác song phương. Cục diện đó không những do chuyển dịch ngành sản xuất vì cạnh tranh Trung-Mỹ, mà còn được hưởng lợi từ thương mại chuỗi giá trị ở châu Á đã vận hành trong nhiều năm.

Đối với Việt Nam, tham gia thương mại chuỗi giá trị mang lại lợi ích to lớn, không những thúc đẩy lực lượng lao động trình độ thấp và trung bình tham gia ngành cần nhiều lao động, mà còn có thể tiến vào thị trường quốc tế cho dù không cần thương hiệu riêng, thậm chí sản xuất những linh kiện của một số nhãn hiệu nổi tiếng.

Trên thị trường thế giới, 10 tháng đầu năm nay, xuất khẩu 6 mặt hàng của Việt Nam vượt 10 tỷ USD, mặt hàng đứng thứ nhất là điện thoại và linh kiện đạt 50 tỷ USD; thứ hai là sản phẩm điện tử, máy vi tính và linh kiện máy tính khoảng 47 tỷ USD; thứ ba là công cụ thiết bị cơ khí và phụ kiện, khoảng 38 tỷ USD; thứ tư là hàng dệt may khoảng 32 tỷ USD; thứ năm là giày dép khoảng 20 tỷ USD; đứng thứ sáu là gỗ và sản phẩm gỗ, khoảng 13,4 tỷ USD.

So sánh những sản phẩm của thương mại Trung-Việt, có thể thấy các mặt hàng thương mại Trung-Việt chiếm ưu thế trong cơ cấu thương mại của Việt Nam với thế giới. Xung đột Nga-Ukraine càng nâng cao địa vị thương mại của Việt Nam.

Ngày 01/8/2020, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU có hiệu lực. Từ tháng 8/2020 đến tháng 7/2022, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh châu Âu (EU) đạt 83,4 tỷ USD, tăng 24% so với giai đoạn 2016 – 2019. Năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt Nam tại thị trường EU tăng lên rõ rệt, Việt Nam cũng trỗi dậy trở thành đối tác thươn gmại hàng hóa lớn nhất của EU trong khu vực ASEAN.

Ngoài ra, điều đáng chú ý là Việt Nam ngày càng trở thành thị trường thứ ba của nhiều công ty quốc tế nhằm tránh sự cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ. Ví dụ, tháng 6/2022, Công ty Apple đã chuyển dây chuyền sản xuất máy tính bảng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Việt Nam là nước xuất khẩu sản phẩm điện tử, từ vị trí thứ 47 trong năm 2001 tăng lên thứ 10 năm 2020, giá trị xuất khẩu chiếm 1,8% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm điện tử của thế giới.

Trong bối cảnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Bắc Kinh, hay Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á tại Campuchia, khi hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều mong muốn Trung Quốc và Việt Nam tăng cường kết nối đường sắt, gia tăng số lượng hàng hóa Việt Nam đến nước thứ ba bằng đường sắt, mong muốn Trung Quốc sớm phê chuẩn dự án kết nối giao thông và cửa khẩu biên giới để mở cửa và nâng cấp khu vực biên giới.

Xét từ góc độ của Trung Quốc, Việt Nam gia nhập mạng lưới đường sắt xuyên Á sẽ càng mang lại hiệu ứng rộng lớn hơn. Việt Nam là quốc gia tích cực tham gia những hiệp định thương mại tự do, không chỉ là thành viên của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), mà còn là bên đàm phán của Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF), đồng thời đã ký kết hiệp định thương mại tự do với EU. Dân số Việt Nam sắp vượt ngưỡng 100 triệu người, những nhà lãnh đạo Việt Nam linh hoạt, địa vị của Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài và ngoại thương toàn cầu dần tăng lên sẽ là quốc gia quan trọng ủng hộ thúc đẩy mở cửa thế giới và phát triển chung toàn cầu. Cục diện đó cũng rất quan trọng đối với sự phát triển và mở cửa đối ngoại của Trung Quốc trong tương lai.

Nguồn: www.comment.cfisnet.com

TLTKĐB – 08/01/2023

Ý nghĩa quan trọng của việc kết nối đường sắt Trung Quốc – Việt Nam – Phần II


Các tuyến Bắc Nam và Đông Tây khi kết nối đường sắt Việt Nam

Tăng cường kết nối, mở cửa ở cửa khẩu là sáng kiến do Việt Nam chủ động đề xuất. Theo Thông tấn xã Việt Nam, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định mong muốn duy trì chuỗi cung ứng thông suốt và tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa hai nước thông quan thuận lợi; tăng hạn ngạch hàng hóa Việt Nam đi qua Trung Quốc để đến một nước thứ ba bằng đường sắt; tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác vận tải đường không, đường bộ và đường sắt.

Khoản 1 phần 7 của Tuyên bố chung Trung-Việt được ký vào ngày 1/11 có nội dung: Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển hai nước, nhanh chóng trao đổi, ký kết Kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ hai nước về thúc đẩy kết nối giữa Khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, triển khai hợp tác năng lực sản xấut, hợp tác xây dựng kết cấu hạ tầng và kết nối giao thông, sớm hoàn thiện đánh giá Quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng.

Điều 8 phần 7 nêu rõ: Tiếp tục đẩy mạnh mở cửa cửa khẩu/lối mở biên giới, thúc đẩy xây dựng kết cấu hạ tầng qua biên giới, trong đó tập trung trao đổi, thống nhất phương án kết nối đoạn đường sắt giữa ga Lào Cai (Việt Nam) với ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc).

Sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đã đề xuất một kế hoạch táo bạo hơn. Theo “Chương trình nâng cao năng lực phục vụ liên vận đường sắt quốc tế đến năm 2030” do Bộ này trình chính phủ, Việt Nam sẽ tăng mạnh khối lượng xuất khẩu hàng hóa đường sắt từ 1,1 triệu tấn năm 2021 lên 4 – 5 triệu tấn vào năm 2030.

Chương trình này nối Hà Nội với Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất ở phía Nam, về ý tưởng giống với tuyến đường sắt Bắc Kinh-Thượng Hải của Trung Quốc. Trong đó, kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc Bắc-Nam dự kiến đầu tư 56 tỷ USD, được chính phủ Nhật Bản lên kế hoạch phát triển, tuyến đường sắt sẽ tiếp tục kéo dài về phía Bắc và kết nối với Bằng Tường, Sùng Tá và Nam Ninh của Quảng Tây thông qua Đồng Đăng.

Hiện nay tuyến đường sắt từ Nam Ninh đến Sùng Tả đã đi vào hoạt động và tuyến đường sắt Sùng Tả-Bằng Tường dự kiến sẽ khai trương vào năm 2024. Trong tương lai, tuyến đường sắt cũng sẽ kết nối với các cảng lớn trong Hành lang đất liền-biển phía Tây như cảng Phòng Thành, sau đó hình thành logistics có phạm vi lớn hơn với liên vận đường sắt – đường biển của cảng thương mại tự do Hải Nam.

Một tuyến đường sắt khác là tuyến Đông Tây với trung tâm là Hà Nội, hướng Đông đến cảng Hải Phòng, kết nối Lào Cai với Hà Khẩu của Vân Nam về phía Tây Bắc, tiếp đó kết nối với Côn Minh, có thể kết nối với tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào bắt đầu từ Côn Minh. Trên thực tế, tháng 3/2019, tuyến đường sắt Vân Nam-Việt Nam đã khai trương tuyến liên vận đường biển-đường sắt.

Việt Nam hội nhập sâu hơn vào mạng lưới đường sắt xuyên Á đang hình thành

Với chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, quan hệ Trung-Việt cũng bước sang một giai đoạn phát triển mới. Theo tuyên bố của Việt Nam, quan hệ với Trung Quốc được coi là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay bất ổn và khó lường gia tăng, từ cân nhắc chính trị, Việt Nam cũng cần tăng cường hợp tác với Trung Quốc.

Trung Quốc nhiều năm giữ vững vị thế đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và là đối tác thương mại lớn thứ 6 thế giới của Trung Quốc, năm 2021 kim ngạch thương mại song phương lên tới 230 tỷ USD.

Tuy Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng, nhà cung cấp viện trợ phát triển chính thức lớn nhất và là đối tác xuất khẩu lao động lớn thứ hai của Việt Nam, nhưng tiềm năng phát triển của Nhật Bản còn kém xa Trung Quốc. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đạt 123 tỷ USD vào năm 2021 và là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam nhưng chỉ là nước đầu tư đứng thứ 11 vào Việt Nam. Năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ thấp hơn so với xuất khẩu sang Trung Quốc và Mexico.

Việt Nam là hình mẫu của mô hình phát triển kinh tế hướng ngoại, do tác động của lạm phát toàn cầu gia tăng và biến động tỷ giá hối đoái nên tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2023 sẽ thấp hơn năm 2022. Để ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, Việt Nam mong muốn đẩy nhanh đầu tư vào các cơ sở công cộng trong nước, tất nhiên bao gồm cả xây dựng cơ sở hạ tầng.

Về mục tiêu trung và dài hạn, Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn vào mạng lưới tuyến đường sắt xuyên Á đang hình thành và tận dụng tốt cơ hội do sự phát triển của Trung Quốc mang lại. Việt Nam đồng ý đi sâu thảo luận kết nối đường sắt, một trong những cân nhắc là Việt Nam kết nối thương mại với Trung Á và châu Âu thông qua tuyến đường của Trung Quốc

Tháng 3/2019, hành lang vận tải đường sắt Việt Nam-Trung Quốc-Kazakhstan-châu Âu chính thức được đưa vào hoạt động, có thể gọi đây là tuyến đường liên vận Việt Nam-châu Âu phiên bản Việt Nam. Lô hàng đầu tiên là sản phẩm điện tử do công ty Hàn Quốc vận chuyển đến Duisburg, Đức, mất 22 ngày. Tháng 10/2021, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam nghiên cứu dự án đường sắt Lào Cai-Hà Khẩu, có kế hoạch kết nối với công trình cải tạo đường ray của Trung Quốc.

Việc xây dựng đường sắt trong lãnh thổ Trung Quốc và vận tải xuyên biên giới tiến triển nhanh chóng. Một mặt, ngoài tuyến Ngọc Khê, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Di Lặc-Mông Tự thuộc châu tự trị dân tộc Cáp Nê-Di Hồng Hà từ năm 2015, dự báo sẽ được đưa vào khai thác trong năm nay, điều này sẽ giúp tăng đáng kể năng lực vận chuyển hành khách của mạng lưới đường sắt Vân Nam đến Đông Nam Á.

Đồng thời, tuyến đường sắt Trung Quốc-Việt Nam ngày càng mở rộng đến các khu vực miền Trung và miền Tây của Trung Quốc. Ví dụ, đầu tháng 6/2022, phương thức “Đường sắt tốc hành” của khu vực hải quan xuyên quốc gia từ Trùng Khánh đến Việt Nam đã được triển khai, đánh dấu tuyến đường sắt liên vận Trung Quốc – Việt Nam bước vào thời kỳ mới. Cửa ngõ đường sắt vào Việt Nam là Bằng Tường của Quảng Tây. Tính đến cuối tháng 10, tổng cộng có 238 chuyến tàu liên vận xuyên biên giới Trung Quốc-Việt Nam đã được khai thác trong năm 2022, tăng hơn 178% so với cùng kỳ năm 2021. Điều đáng chú ý là tiến triển của việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc từ cảng Phòng Thành của Quảng Tây đến Phòng Đông thuộc Đông Hưng, thành phố biên giới Trung-Việt đang tiến triển nhanh chóng, dự kiến hoàn thành và đưa vào khai thác năm 2023.

(còn tiếp)

Nguồn: www.comment.cfisnet.com

TLTKĐB – 08/01/2023

Ý nghĩa quan trọng của việc kết nối đường sắt Trung Quốc – Việt Nam – Phần I


Nhìn lại lịch sử, tuyến đường sắt liên vận Trung Quốc-Việt Nam được đi vào khai thác phản ánh diễn biến nhanh chóng của một thế kỷ với nhiều thay đổi lớn. Triển vọng tương lai, việc kết nối đường sắt Trung Quốc-Việt Nam sẽ trở thành dấu mốc quan trọng cho sự trỗi dậy của nền kinh tế châu Á với Trung Quốc là trung tâm.

Gần đây, việc xây dựng mạng lưới đường sắt được sự chỉ đạo cấp cao giữa Trung Quốc và Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của quốc tế.

Ngày 01/11, khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sang thăm Trung Quốc, Trung Quốc và Việt Nam đã ra Tuyên bố chung về tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt, đã đề cập đến việc tăng cường hơn nữa kết nối song phương, đặc biệt là để giải quyết các vấn đề khác nhau về khổ đường sắt giữa hai nước.

Nội dung này ngay lập tức thu hút sự chú ý quốc tế, trong một bài báo giữa tháng 11, tờ “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng” (SCMP) dẫn lời ông Lampton – chuyên gia nổi tiếng người Mỹ về Trung Quốc: Việt Nam lo ngại bỏ lỡ cơ hội vào mạng lưới đường sắt xuyên Á do Trung Quốc xây dựng, còn Trung Quốc sẽ tăng cường hơn nữa địa vị trung tâm trong hệ thống kinh tế của Đông Á và Đông Nam Á.

Nhìn lại lịch sử, sự kiện kết nối đường sắt Trung-Việt đã phản ánh quá trình thay đổi nhanh chóng trong 100 năm qua; nhìn về tương lai, sự kết nối đường sắt Trung-Việt sẽ trở thành tiêu chí quan trọng về sự trỗi dậy của kinh tế châu Á với Trung Quốc là trung tâm.

Sự thay đổi lớn 100 năm qua của tuyến đường sắt quốc tế Trung-Việt

Việc xây dựng tuyến đường sắt xuyên biên giới giữa Trung Quốc và Việt Năm bắt nguồn từ đầu thế kỷ 20, đó là thời kỳ thay đổi lớn khi đường sắt bắt đầu ra khỏi lục địa châu Âu và lan rộng sang 4 châu lục.

Sau Chiến tranh Giáp Ngọ (Trung-Nhật 1894-1895), quyền xây dựng đường sắt của Trung Quốc dần dần bị các nước đế quốc thâu tóm. Năm 1903, chính quyền nhà Thanh và Pháp ký hiệp định xây dựng tuyến đường sắt Vân Nam-Việt Nam, cho phép Pháp xây dựng tuyến đường sắt Vân Năm-Việt Nam tại Vân Nam với quyền khai thác 80 năm.

Có nguồn tin cho biết, tuyến đường sắt từ Hải Phòng Việt Nam đến Côn Minh Trung Quốc tiêu tốn 95 triệu franc vào thời điểm đó và là dự án ở thuộc địa tham vọng nhất trong lịch sử nước Pháp, với tổng chiều dài gần 900 km, trong đó có khoảng 500 km ở Trung Quốc. Đây cũng là tuyến đường sắt duy nhất ở Trung Quốc sử dụng khổ 1000 mm, được đưa vào sử dụng từ tháng 4/1910.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tuyến đường sắt Vân Nam – Việt Nam từng bị quân đội Nhật Bản kiểm soát. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Trung Hoa dân quốc và Chính phủ Pháp đã ký một thỏa thuận bãi bỏ Hiệp định đường sắt Vân Nam – Việt Nam năm 1903.

Sau khi thành lập nước Trung Quốc mới, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu sửa chữa tuyến đường sắt bị phá hoại trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đồng thời năm 1955, tuyến đường sắt từ Bằng Tường Quảng Tây đến Hà Nội được khai trương. Tháng 4/1961, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã đi tuyến đường sắt Bằng Tường – Hà Nội và gặp nhà lãnh đạo Hồ Chí Minh tại Bằng Tường.

Bước sang thế kỷ 21, do các tuyến đường cũ kỹ và các vấn đề quản lý vận hành, tuyến đường sắt này đã ngừng vận chuyển hành khách. Cùng thời điểm đó, Trung Quốc và ASEAN đã ký hiệp định khu vực thương mại tự do, vì vậy Cục Đường sắt Nam Ninh đã bổ sung tà vẹt mềm cho đường sắt ở Nam Ninh và Hà Nội. Đây là tiền thân của vận tải hành khách xuyên biên giới Trung Quốc – Việt Nam trong thời kỳ mới.

Tuyến vận tải hàng hóa đường sắt quốc tế điện khí hóa mới giữa Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu khai thác vào tháng 12/2014. Việc khai trương tuyến đường sắt từ thành phố Mông Tự, thủ phủ của châu tự trị dân tộc Cáp Nê, Di Hồng Hà, đến Hồng Hà, thủ phủ của huyện tự trị dân tộc Dao Hà Khẩu đã được khai trương và kết nối với thành phố Lào Cai. Trước đó, tuyến đường sắt Ngọc Khê – Mông Tự đã đi vào khai thác đầu năm 2013, việc cải tạo mở rộng tuyến đường sắt Côn Minh – Ngọc Khê đã hoàn thành vào năm 2016. Tuyến đường sắt Trung – Việt Bắt đầu gia nhập tuyến đường sắt xuyên Á.

Tuy nhiên, hàng hóa Việt Nam vẫn sử dụng phương thức truyền thống khi quá cảnh qua Trung Quốc sang châu Âu, do khổ đường ray của hai nước khác nhau, đến biên giới hàng hóa cần chuyển sang đường ray khác. Đường sắt Việt Nam sử dụng khổ hẹp 1000 mm do người Pháp thiết kế, còn tuyến đường sắt Trung Quốc sử dụng khổ đường sắt quốc tế 1435 mm. Hậu quả của việc chuyển tuyến là khối lượng hàng hóa vận chuyển đường sắt giữa Trung Quốc và Việt Nam không lớn.

Tháng 11/2015, Trung Quốc và Việt Nam đã ký “Văn bản troa đổi nghiên cứu tính khả thi Dự án quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải PHòng” của Việt Nam, tổng chiều dài tuyến đường sắt khoảng 390 km, khi đó dự báo tổng số vốn đầu tư để cải tạo là 4,4 tỷ USD.

Tuy nhiên, sau nhiều năm kể từ đó, Trung Quốc và Việt Nam không ngừng đàm phán về phương án nối khổ đường sắt và các thế lực bên thứ ba cũng can thiệp, họ không muốn Trung Quốc và Việt Nam nhanh chóng xúc tiến kế hoạch kết nối khổ đường sắt. Ví dụ, trong một báo cáo đánh giá năm 2017, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã nhận định tiêu cực đối với kế hoạch đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai- Hà Nội – Hải Phòng do Trung Quốc đề xuất. Do đó, mặc dù Việt Nam chính thức tham gia dự án “Vành đai và Con đường” vào tháng 11/2017, nhưng phải đến tháng 7/2021 mới chính thức tham gia dự án tuyến đường sắt liên vận Trung Quốc – châu Âu.

(còn tiếp)

Nguồn: www.comment.cfisnet.com

TLTKĐB – 08/01/2023

Đối phó với những thách thức “vùng xám” trên biển ở Đông Nam Á – Phần cuối


Cần lưu ý rằng các sáng kiến chính của ASEAN về biển Nam Trung Hoa nằm trong nỗ lực xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC). Trong khuôn khổ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí về việc hoàn tất COC. Mặc dù những tiến triển đạt được sau đó còn khiêm tốn, nhưng đến năm 2017, ASEAN và Trung Quốc đã thống nhất về khuôn khổ cho COC. Năm 2018, ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí về văn bản đàm phán Dự thảo COC duy nhất. Mặc dù tiến trình đàm phán COC chủ yếu thuộc trách nhiệm của bộ trưởng ngoại giao, nhưng việc thực thi COC sau khi văn kiện này được thông qua sẽ trở thành trách nhiệm chủ yếu của các cơ quan quốc phòng của ASEAN và Trung Quốc. Như vậy, COC cũng có thể tác động đến các hoạt động ngoại giao quốc phòng lớn hơn trong khu vực, chứ không chỉ ADMM và ADMM+. Trong văn kiện đàm phán nói trên, Bắc Kinh đề xuất rằng Trung QUốc và ASEAN không nên tổ chức các cuộc tập trận chung với các nước bên ngoài khu vực, trừ khi các bên liên quan được thông báo trước và không phản đối điều này. Nếu điều khoản này được đưa vào COC cuối cùng, thì Trung Quốc trên thực tế có thể phủ quyết các cuộc tập trận của các nước ASEAN với các cường quốc khác như Mỹ. Philippines chỉ trích điều này với việc người đứng đầu Bộ Ngoại giao Philippines nhấn mạnh: “Một thỏa thuận như vậy sẽ là sự ngấm ngầm thừa nhận bá quyền của Trung Quốc… Nói tóm lại, đó là cẩm nang hướng dẫn cách chung sống với một nước bá quyền hoặc cách chăm sóc một con rồng trong phòng khách nhà bạn”. Khi Philippines kết thúc nhiệm kỳ Nước điều phối quan hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc, Ngoại trưởng Philippines Locsin khi đó đã nhấn mạnh rằng các cuộc đàm phán COC không đi đến đâu và Philippines phản đối việc loại trừ bất kỳ cường quốc bên ngoài nào khỏi biển Nam Trung Hoa. Ông khẳng định: “Điều đó sẽ tạo ra phạm vi ảnh hưởng bán hợp pháp đi ngược lại nguyên tắc duy trì sự hữu hảo và tôn trọng giữa tất cả các nước”.

Những vấn đề chính sách cần cân nhắc

Dựa trên những điều được đề cập ở trên, có thể nói nhiều khả năng những thách thức từ chiến thuật ép buộc “vùng xám” sẽ không nằm trong nghị trình của ASEAN. Sự khác biệt về lợi ích an ninh và quan điểm giữa các nước ASEAN sẽ khiến cho việc đạt được sự đồng thuận trên cơ sở nhất trí là nhiệm vụ đầy thách thức. Vì vậy, trong bối cảnh ASEAN phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình đàm phán COC, vai trò của tổ chức này sẽ bị giới hạn ở việc thực thi và đánh giá an ninh hàng hải liên quan đến những sáng kiến như ADI, GMI và GAME.

Do đó, ngoài các sáng kiến riêng của từng nước, các thách thức “vùng xám” trên biển có thể được giải quyết, hoặc ít nhất là kiểm soát, thông qua các diễn đàn bên ngoài ASEAN. Ở cấp quốc gia, các cơ quan chính phủ có liên quan cần tăng cường hiểu biết về “vùng xám” trên biển. Vì “vùng xám” nằm đâu đó giữa hai trạng thái được gọi chung là “chiến tranh” và “hòa bình”, nên các chiến thuật cưỡng ép dưới ngưỡng xung đột vũ trang được cố ý thiết kế nhằm gieo rắc nỗi hoang mang cho kẻ thù về việc nên phản ứng ra sao, cơ chế/giao thức pháp lý nào sẽ được áp dụng, cơ quan nào nên giữ vai trò dẫn dắt và nhiều vấn đề khác. Vì vậy, điều quan trọng là phải có sự đồng thuận quốc gia về khái niệm “vùng xám” và tác động của nó đối với an ninh quốc gia.

Trên thực tế, việc tiếp tục chương trình hiện đại hóa các Lực lượng vũ trang Philippines (AFP), cũng như việc tăng cường nhận thức về lĩnh vực hàng hải (MDA), có ý nghĩa quan trọng đối với Manila. Do các hoạt động “vùng xám” không chỉ liên quan đến quân đội, nên Manila cũng cần phải đẩy mạnh năng lực của Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines (PCG) và các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải dân sự khác. Việc không ngừng giám sát và báo cáo về những diễn biến trên biển cũng là nhiệm vụ then chốt. Xét cho cùng, các hoạt động “vùng xám” gia tăng mạnh mẽ vì khả năng phủ nhận chính đáng của các lực lượng được triển khai (chẳng hạn như dân quân biển thuộc Lực lượng vũ trang nhân dân Trung Quốc). Việc liên tục thu hút sự chú ý của dư luận đến các hoạt động của dân quân biển, lực lượng có liên quan đến Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA), có ý nghĩa quan trọng vì điều này có thể giúp làm suy yếu khả năng phủ nhận chính đáng vốn được xem là lợi thế của họ.

Do việc hợp tác cấp ASEAN để giải quyết các thách thức “vùng xám” trên biển có thể sẽ gặp khó khăn, nên sự hợp tác giữa các nước liên quan trong khu vực có thể là lựa chọn thay thế. Chẳng hạn, trong khuôn khổ Kế hoạch hành động (POA) cho việc triển khai quan hệ đối tác chiến lược giai đoạn 2019 – 2024, Philippines và Việt Nam đã nhất trí hợp tác với nhau trong các hoạt động xây dựng năng lực thông qua việc trao đổi thông tin tình báo, trao đổi nhân sự thuộc lực lượng quân sự và lực lượng thực thi pháp luật vì mục đích huấn luyện và đào tạo, cũng như thiết lập quan hệ hợp tác thiết thực và tăng cường chia sẻ các thông lệ tốt nhất trong việc thực thi pháp luật hàng hải và bảo vệ biển giữa các thể chế liên quan. Kiểm soát/đối phó với các chiến thuật ép buộc “vùng xám” trên biển có thể là một lĩnh vực trong việc thực thi những điều khoản này trong POA. Philippines và Việt Nam có thể cùng nhau thu hút sự chú ý của dư luận vào các hoạt động cưỡng ép “vùng xám” của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa, vì hai nước đã bày tỏ sự ủng hộ lẫn nhau khi cả hai đều phải hứng chịu những hành động quyết đoán của Trung Quốc ở biển.

Tương tự, việc xây dựng năng lực giải quyết/kiểm soát các thách thức “vùng xám” có thể là lĩnh vực để hợp tác với đồng minh của Philippines, Mỹ, và các đối tác an ninh khác như Australia và Nhật Bản. Hợp tác đa phương hẹp giữa các nước chung chí hướng trong khu vực cũng có thể được khai thác trong việc đối phó với các thách thức “vùng xám”.

Kết luận

Bài viết này tìm hiểu các cách thức có thể giúp ASEAN đóng vai trò nhất định trong việc đối phó với các thách thức “vùng xám” trên biển. Tuy nhiên, nhiều khả năng những thách thức này sẽ không nằm trong nghị trình của ASEAN. Sự khác biệt về lợi ích an ninh và quan điểm giữa các nước ASEAN sẽ khiến cho việc đạt được sự đồng thuận trên cơ sở nhất trí là nhiệm vụ đầy thách thức. Do vậy, vai trò của ASEAN sẽ bị giới hạn ở việc thực thi và đánh giá các sáng kiến ngoại giao quốc phòng có liên quan. Theo đó, việc giải quyết/kiểm soát các thách thức “vùng xám” phần lớn sẽ phụ thuộc vào các nước có liên quan, cũng như sự hợp tác song phương/đa phương hẹp giữa các nước bên ngoài phạm vi ảnh hưởng của ASEAN.

Nguồn: www.ndcp.edu.ph TLTKĐB – 06/11/2022           

Đối phó với những thách thức “vùng xám” trên biển ở Đông Nam Á – Phần II


Những thách thức đối với ASEAN

Như đã đề cập ở trên, các thách thức “vùng xám” nằm trong số những vấn đề an ninh lớn mà ASEAN và khu vực Ấn Độ Dương-châu Á-Thái Bình Dương rộng lớn hơn đang phải đối mặt. Với việc tiếp tục thúc đẩy vai trò trung tâm của mình trong cấu trúc an ninh đa phương khu vực, ASEAN phải đối mặt với những thách thức nào khi đối phó – hay ít nhất là kiểm soát – các thách thức “vùng xám” trên biển? Thách thức đầu tiên mà ASEAN phải đối mặt là sự khác biệt về lợi ích quốc gia giữa các nước thành viên. Những hành động cưỡng ép “vùng xám” trên biển – và tranh chấp biển Nam Trung Hoa nói chung – đã phơi bày sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN. Xét cho cùng, trong số 10 nước thành viên ASEAN, chỉ có 4 nước đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển này là Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Bốn nước này cũng đưa ra các tuyên bố chủ quyền cạnh tranh nhau. Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi nhiều phần của Trường Sa nằm trong tuyên bố chủ quyền của Brunei, Malaysia và Philippines.

Mặc dù hầu hết, nếu không phải là tất cả, các nước thành viên ASEAN đều quan ngại về lối hành xử ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực, nhưng tính toán chiến lược của họ chủ yếu vẫn do các lợi ích quốc gia tương ứng định hình. Trong số 4 quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền, hai nước tiền tuyến là Philippines, giáp biển Nam Trung Hoa ở phía Tây, và Việt Nam, giáp biển Nam Trung Hoa ở phía Đông, là những nước bày tỏ quan điểm mạnh mẽ nhất. Cả Việt Nam và Philippines đều sẽ mất đi phần nhiều Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, cũng như các tuyên bố chủ quyền đối với nhiều cấu trúc địa hình ở biển Nam Trung Hoa nếu Trung Quốc thành công làm chủ vùng biển này. Triển vọng này có thể thay đổi tùy thuộc vào cách nhìn nhận của các nước Đông Nam Á lục địa về môi trường an ninh khu vực. Xét cho cùng, phần lớn các nước Đông Nam Á lục địa có nhiều điểm tương đồng hơn với Trung Quốc về địa chính trị. Trên thực tế, vì tranh chấp biển Nam Trung Hoa, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 45 do Campuchia chủ trì năm 2012 không thể đưa ra tuyên bố chung – hiện tượng xảy ra lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN. Cựu Đại sứ Singapore Bilahari Kausikan thẳng thắn nhận định rằng điều này là do Campuchia, trong vai trò Chủ tịch ASEAN, kiên quyết từ chối xem xét bất kỳ văn kiện nào về biển Nam Trung Hoa mà có thể làm phật lòng Trung Quốc, nhà bảo trợ của họ. Mặc dù trên danh nghĩa các nước thành viên ASEAN đã đạt được sự đồng thuận dưới hình thức nào đó về vấn đề này sau sự việc được đề cập ở Campuchia, nhưng sự khác biệt về lợi ích quốc gia và quan điểm giữa các nước thành viên ASEAN xung quanh vấn đề biển Nam Trung Hoa vẫn luôn là một thách thức an ninh lớn.

Sự khác biệt về lợi ích quốc gia dẫn tới thách thức lớn thứ hai: Các nước thành viên ASEAN khó đạt được sự đồng thuận. Cần lưu ý rằng trong ASEAN, sự đồng thuận trên thực tế được định nghĩa là sự nhất trí về việc thực thi quyền phủ quyết của từng nước. Do đó, trong cơ chế hội nhập được thiết kế nhằm củng cố chủ quyền của mỗi nước thành viên và trong nhận thức về sự khác biệt giữa họ, “Phương thức ASEAN” hướng tới hai mục tiêu chiến lược: (1) ngăn chặn xung đột song phương giữa các nước thành viên ASEAN  mà có thể tác động đến sự ổn định khu vực và hoạt động của tổ chức, và (2) tránh những vấn đề gây tranh cãi giữa các nước thành viên và những nước không phải là thành viên của ASEAN mà có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ bên trong tổ chức. Tuy nhiên, là kết quả của tiến trình ra quyết định dựa trên sự đồng thuận, các sáng kiến của ASEAN phần lớn là về các vấn đề không gây tranh cãi và tập trung vào những kết quả dễ đạt được hay những lĩnh vực hợp tác được ví như là “mẫu số chung nhỏ nhất”. Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin Jr. đã thẳng thắn phàn nàn về sự tê liệt thể chế của ASEAN: “Chúng ta là một nhóm những kẻ luôn nhất trí với nhau về những vấn đề chẳng có giá trị gì”.

ASEAN và an ninh hàng hải

Mặc dù an ninh hàng hải nằm trong nghị trình của ASEAN – đặc biệt là nghị trình Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) – nhưng các thách thức “vùng xám” trên biển chưa phải là chủ đề nổi bật trong các cuộc thảo luận. Tuy nhiên, bất chấp những điểm yếu về thể chế và những mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN, cũng như những động lực của cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, ADMM vẫn thông qua một số sáng kiến mà có thể đóng góp khiêm tốn vào việc quản lý căng thẳng ở biển Nam Trung Hoa, và nhìn rộng ra là hỗ trợ những nỗ lực giải quyết các mối quan ngại an ninh truyền thống. Năm 2014, ADMM đã thông qua Đề án xây dựng Kênh thông tin trực tiếp (DCL) – nay được gọi là Cơ sở hạ tầng thông tin trực tiếp ASEAN (ADI) – nhằm mục đích cung cấp một phương tiện lâu dài, nhanh chóng, đáng tin cậy và bảo mật giúp bộ trưởng quốc phòng hai nước ASEAN có thể trao đổi thông tin với nhau để đi đến những quyết định chung trong việc xử lý khủng hoảng hoặc các tình huống khẩn cấp, nhất là những tình huống liên quan đến an ninh hàng hải. Năm 2019, ADMM đã thông qua một đề án mở rộng, ADI sang các nước đối tác của ASEAN.

Năm 2017, ADMM đã thông qua Hướng dẫn tương tác hàng hải (GMI) nhằm xây dựng các biện pháp quản lý tranh chấp hàng hải một cách toàn diện và hiệu quả trên cơ sở xây dựng lòng tin, thực hiện ngoại giao phòng ngừa và quản lý hòa bình căng thẳng có thể xuất hiện ở biển. GMI lưu ý rằng văn kiện này ủng hộ tất cả các thỏa thuận hàng hải hiện có giữa các nước thành viên ASEAN, cũng như giữa những nước này với các nước và tổ chức khác bao gồm cả, chứ không giới hạn ở, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Bộ quy tắc ứng xử về các cuộc đụng độ bất ngờ trên biển (CUES). Mặc dù bản chất là tự nguyện, nhưng GMI khuyến khích đối thoại dân sự-quân sự giữa các lực lượng hải quân, lực lượng bảo vệ bờ biển, lực lượng cảnh sát biển với các ngành công nghiệp tư nhân có can dự vào các hoạt động hàng hải. Một trong những hoạt động có thể được tiến hành trong khuôn khổ GMI là thảo luận về các chiến lược, kế hoạch làm việc, đạo luật, báo cáo, quy tắc can dự hiện hành và những thông tin khác liên quan đến an ninh hàng hải, an ninh cảng biển và quyền quá cảnh bằng đường hàng không, cũng như các dạng thức và thủ tục khác. Hơn nữa, ADMM đã mở ra khả năng áp dụng GMI với cả các nước đối tác của ASEAN.

Năm 2018, ADMM ban hành Hướng dẫn tránh va chạm quân sự trên không (GAME). Văn kiện này về bản chất mang tính tự nguyện và không có tính ràng buộc, nhưng nó giúp ngăn ngừa các cuộc đụng độ vô tình giữa các máy bay quân sự đang di chuyển phía trên các vùng biển khơi và đảm bảo khoảng cách an toàn để tránh tạo ra mối nguy hại đối với an toàn hàng không. Để giữ khoảng cách an toàn, các máy bay quân sự nên xem xét toàn diện các quy tắc riêng của nước họ và hướng dẫn quốc tế thích hợp. GAME có 4 phụ lục về việc tuân thủ các quy ước và quy tắc hàng không hiện hành, thông tin liên lạc an toàn và chuyên nghiệp, thực hiện thủ tục bay tiêu chuẩn và khuyến khích sự tin tưởng lẫn nhau khi ở trên không. Mặc dù còn nhiều việc phải làm, nhưng ADI, GMI và GAME có thể góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý khủng hoảng hiện có nhằm ngăn chặn và/hoặc giảm thiểu căng thẳng.

(còn tiếp)

Nguồn: www.ndcp.edu.ph

TLTKĐB – 06/11/2022