Làm cách nào mọi thứ lại được truyền miệng với tốc độ nhanh chóng đến như vậy?
Tiếp thị lan truyền/tiếp thị truyền miệng (viral marketing) dường như là một cách phản ứng của ngành truyền thông với sự nhận thức ngày càng tăng đối với sức mạnh của hoạt động truyền miệng. Các sự kiện quảng bá lớn như Cannes, Clio và D&AD có vẻ như đều bị cuốn phăng đi với công việc sáng tạo “lan truyền” (ở đây ý tôi muốn nói là những quảng cáo sành điệu và thường là vui nhộn hay những đoạn phim ngắn mà chúng ta có thể gửi đến cho bạn bè) và các nhà điều hành – những người ngồi trong những căn phòng tối tăm để phán đoán chất lượng công việc của các đồng nghiệp – đặc biệt bị bất ngờ bởi hoạt động “lan truyền” này. Trên thực tế, có những trường hợp rất đáng kinh ngạc và gắn liền với mức thành công to lớn về doanh số – hình ảnh quảng cáo “con gà ngộ nghĩnh” của Crispin Porter Bogusky cho hãng KFC là một ví dụ điển hình nhất về điều này. Nhưng liệu đây có phải là một kiểu chuyển đổi của toàn ngành sang hoạt động tiếp thị C2C? Họ có thật sự tin rằng điều quan trọng là khả năng của các hoạt động truyền thông sáng tạo trong việc khuyến khích khách hàng tiếp thị với nhau? Hay còn điều gì khác đằng sau niềm đam mê mới mẻ này?
Nói một cách đơn giản, khi khách hàng ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn, khi các quy trình thu mua và đánh giá giới hạn phạm vi sáng tạo thật sự để hấp dẫn khách hàng mới, khi những người vận động hành lang của chính phủ và người tiêu dùng tìm cách giành quyền kiểm soát nhiều hơn đối với nội dung truyền thông tiếp thị, các hãng sáng tạo sẽ nhìn nhận không gian “lan truyền” này như một môi trường tự do, nơi họ có thể làm những việc đáng kinh ngạc và đáng được nhắc đến – những thứ có thể tạo dựng hoặc hủy hoại danh tiếng của họ, nơi họ có thể làm những việc “rồ dại” và kỳ cục để thu hút sự chú ý đến doanh nghiệp cũng như các nguyên tắc của doanh nghiệp đó, một nơi mà những công nghệ mới hơn – Internet và công nghệ di động – có thể thật sự phát huy tác dụng nhằm mục đích tạo ra hiệu ứng truyền miệng cho những người tạo ra chúng?
Dĩ nhiên, trò chơi lan truyền/truyền miệng này đang được nhìn nhận dưới quan điểm của công chúng. Nhiều người trong chúng ta chỉ đơn giản xóa bỏ các thư từ điện tử nhận được từ người quen – những người bị ám ảnh bởi hình thức lan truyền – mà không hề mở cho chúng ta xem. Vì vậy, những người truyền miệng đang dùng thử các phương tiện khác để tạo ra “tiếng ồn”. “Chúng ta muốn các mạng xã hội phát triển như các chatroom, tạo ra một mẩu tin tốt và sử dụng nó để khiến mọi người đăng ký vào một trang web để đăng tải nó một cách tự nguyện”, Rana Reeves của Jackie Cooper PR nói. Một phương pháp khác là nhờ đến các cộng đồng những người tiêu dùng bán chuyên nghiệp để ủng hộ bạn, giống như cách mà đại gia Procter & Gamble đã làm trong thị trường hàng tiêu dùng nhanh. “Tremor” là một trang ủng hộ người tiêu dùng ở độ tuổi thanh thiếu niên – những người trẻ tuổi được khuyến khích dùng thử và giới thiệu về các sản phẩm mới với bạn bè. “Voicalpoint” là trang hướng dẫn đến những bà mẹ. Dù trong cả hai trường hợp trên, ý định xây dựng thương hiệu đã quá rõ ràng, nhưng không phải trường hợp nào cũng tương tự như vậy. Có một số thủ thuật của người truyền miệng khiến người khác không “cảm” được.
Sói đội lốt cừu
Vậy điều gì sẽ xảy ra khi nỗ lực tạo ra hoạt động truyền miệng của chúng ta bị xem là giả tạo và do chính công ty “phịa” ra? Một ví dụ điển hình về trường hợp này đã xuất hiện vào mùa xuân năm 2006 xoay quanh sản phẩm chăm sóc da “Holiday Skin” của Johnson & Johnson (J&J). Về cơ bản, đây là một chất dưỡng ẩm với một hàm lượng nhỏ hoạt chất hiệu ứng rám nắng. Theo hai tờ báo của Anh (Mail on Sunday và The Scotsman), Ủy ban Tiêu dùng Quốc gia đã phát hiện được các đại lý của J&J và một đối thủ cạnh tranh chính của St Tropez đã phối hợp để tạo ra các chatroom giả mạo nhằm “cài” sản phẩm của mình vào (tức là vi phạm các quy định tiếp thị đối với những người tiêu dùng ở độ tuổi vị thành niên tại Anh).
Ví dụ, một nội dung đăng trên trang girland.com (từ một “kẻ nặc danh” đáng nghi) hỏi một câu rất “vu vơ”:
“Xin chào, mình tự hỏi là liệu có ai đã nhìn thấy một nội dung quảng cáo kem dưỡng ẩm của Johnson trên truyền hình chưa. Đó là loại sản phẩm tốt cho da và tạo ra hiệu quả rám nắng tự nhiên… cảm ơn!”
Để không bị thua kém, gnay giữ một cuộc đối thoại về việc tạo làn ra rám nắng, Dokta đã đăng nội dung sau:
“Hãy thử dùng ST Tropez, thương hiệu số một về các sản phẩm làm rám nắng”.
Tờ The Mail on Sunday đổ lỗi cho Cơ quan điều tra về nữ giới Girl Intelligence Agency (GIA, bạn đã hiểu chưa?), có trụ sở tại California. Cơ quan nghiên cứu và tư vấn này sử dụng tất cả các ngôn ngữ bí mật để tìm cách hiểu và gây ảnh hưởng đến những cô gái mới lớn và ở tuổi vị thành niên. Đơn vị này tuyên bố có khoảng 40.000 người trẻ tuổi (“đại diện”) – những người không chỉ tiết lộ mối quan tâm, hành vi và phong cách sống của mình với các doanh nghiệp khi được trả tiền mà còn phối hợp với nhau để phổ biến các sản phẩm và dịch vụ mới tại “những bữa tiệc của tuổi mới lớn”. Không ai nhắc đến việc có liên quan đến chatroom trên trang web của họ nhưng kiểu hành vi này không có gì xa lạ đối với các lĩnh vực khác.
Tương tự, đáng lưu ý rằng vào thời điểm ban nhạc Arctic Monkeys thực hiện một số buổi trình diễn trực tiếp tại Mỹ (ví dụ trong chương trình của Saturday Night Live), khán giả Mỹ đã phát hiện được ra điều này – những bài viết đăng tải bình luận về ban nhạc này sau buổi trình diễn mang tính chỉ trích và tiêu cực hơn nhiều so với trải nghiệm mà họ có được hiện tại. Giờ đây, tôi nghi ngờ rằng điều này không có liên quan gì đến thị hiếu âm nhạc khác nhau, nhưng với khán giả Mỹ, có lẽ họ ý thức rõ về hiện tượng Arctic Monkeys nhiều hơn so với khán giả Anh (ít người tiêu dùng Mỹ tiếp xúc trực tiếp với tin tức lan truyền xoay quanh ban nhạc Arctic, hầu hết đều nhận được những báo cáo gián tiếp hoặc từ một người thứ ba về buổi trình diễn). Rõ ràng, nỗ lực của những người làm tiếp thị trong việc tạo ra hiệu quả truyền miệng hoàn toàn khác xa so với phiên bản phát sinh “tự nhiên” của nó. Dù là sản phẩm chăm sóc da hay âm nhạc, sự thật đều giống nhau: thậm chí nếu truyền miệng “thật sự” hay truyền miệng do hiệu ứng tiếp thị có giống nhau vào thời điểm ban đầu thì ngay khi bị phát hiện, kiểu truyền miệng “giả tạo” đó sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề không kém.
Hiểu sai vấn đề?
Cách thức thảo luận về truyền miệng của ngành này chủ yếu giới hạn trong phạm vi kết quả của những gì mà nó tạo ra (WoM ngoại sinh) chứ không phải những gì tự nảy sinh, phát triển và lan rộng (WoM nội sinh). Đây là lý do vì sao đối với nhiều người, WoM dường như là một hiện tượng mới; vì sao WoM chỉ mới được phát triển trong thời gian gầy đây; vì sao nó được tạo ra bởi những chàng trai, cô gái tiếp thị, quảng cáo và CNTT thông minh này.
Vì vậy, giờ là lúc cần phải lên kế hoạch cho mọi việc nếu bạn cần phải thành công với phương pháp truyền miệng, nếu bạn muốn nắm giữ quyền kiểm soát thật sự đối với đám đông đang trò chuyện, nếu bạn muốn tránh những rủi ro của việc bị bắt quả tang đang làm điều đó, nếu bạn muốn trở thành hiện tượng trong năm. Bạn phải nắm rõ được sự khác biệt quan trọng này: giữa WoM “ngoại sinh” (kết quả của các tác động bên ngoài như các mánh khóe tiếp thị) và WoM “nội sinh” (nhữung thứ phát sinh một cách tự nhiên từ bên trong hệ thống).
Nguyên cái bánh (chứ không chỉ có phần kem phủ bên trên)
WoM không phải là một hiện tượng bổ sung hay kết quả của hoạt động bổ sung – một lớp kem phủ trên bề mặt của chiến bánh tiếp thị. Ban nhạc Arctic Monkeys là điển hình cho sự thành công của hoạt động truyền miệng “tự nhiên” – tức là cả cái bánh, phần kem, phần nhân, và thậm chí cả những chi tiết nhỏ trang trí bên trên chiếc bánh đó. Truyền miệng là một biểu hiện về cách thức hoạt động (hiệu quả/tồi tệ) của cơ chế hành vi đám đông – tự tương tác và ảnh hưởng giữa những người đồng trang lứa.
Đôi khi, điều này sẽ có lợi đối với bạn, nhưng đôi khi ngược lại. Điểm mấu chốt để tận dụng được thế mạnh của nó thật sự nằm ở khả năng thoát khỏi quan điểm (ích kỷ?) của chính mình và nhìn nhận hệ thống gây ra hành vi đám đông “nội sinh” như một thứ không liên quan đến bạn và các mối bận tâm của bạn – hệ thống, những người tham gia và mối quan tâm thật sự của họ.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB TH TPHCM 2012