Một chiều tháng 4 năm 1689, khi mấy thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ đang sôi lên với tin đồn rằng Vua James II sắp tước bỏ các quyền tự do của họ. Thống đốc New England do nhà vua chỉ định, Ngài Edmund Andros, đã cho quân đội của mình diễu qua Boston với vẻ đe dọa. Mục đích của ông ta là đè bẹp bất kỳ ý nghĩ nào về tự trị thuộc địa. Đối với mọi người lúc ấy, tương lai có vẻ ảm đạm.
Đúng lúc đó, dường như từ hư không, xuất hiện trên đường phố “hình ảnh một người đàn ông cao tuổi” với “con mắt, khuôn mặt, thái độ của người chỉ huy”. Cung cách của ông già này “kết hợp giữa nhà lãnh đạo với vị thánh”, đứng trấn ngay giữa đường đi của những binh lính Anh đang tiến lại gần và yêu cầu họ dừng lại. “Giọng nói ấy với âm thanh trang trọng và hùng dũng thích hợp để thống lĩnh một đạo quân trên chiến trường hoặc vang tới Thiên Chúa khi cầu nguyện, không thể cưỡng lại được. Trước lời nói và cánh tay dang ra của ông già, tiếng trống đang vang rền bỗng im bặt, và hàng lính đang tiến lên đứng khựng lại”.
Được truyền cảm hứng từ hành động phản kháng đơn lẻ này, người dân Boston đã thức tỉnh lòng dũng cảm và họ hành động. Trong ngày hôm đó, Andros bị lật đổ và bỏ tù, tự do của Boston được cứu nguy, và phân cảnh ấy đã khởi đầu cho Cách mạng Vinh quang tại thuộc địa.
“Quán quân Già này là ai?” Nathaniel Hawthrone đặt câu hỏi ở gần cuối câu chuyện này trong cuốn Twice-Told Tales (Tạm dịch: Truyện kể hai lần) của mình. Không ai biết gì ngoại trừ việc ông từng là một trong những người Thanh giáo trẻ đầy nhiệt huyết, những người đầu tiên sống tại New England hơn nửa thế kỷ trước đó. Tối hôm ấy, ngay trước khi người linh mục-chiến binh già ấy biến mất, người dân thị trấn thấy ông ôm hôn Simon Bradstreet 85 tuổi, một tâm hồn đồng điệu và là một trong số ít người Thanh giáo gốc vẫn còn sống. Liệu Quán quân Già ấy có bao giờ trở lại? “Tôi nghe nói”, Hawthrone nói thêm, “rằng bất kỳ khi nào con cháu của những người Thanh giáo cần thể hiện tinh thần của cha ông mình, ông già ấy sẽ lại xuất hiện”.
Hậu thế đã phải chờ đợi một thời gian trước khi được thấy ông một lần nữa – thực tế, đó là quãng thời gian dài một đời người. Hawthrone viết, “Khi 80 năm trôi qua”, Quán quân Già lại xuất hiện. Đó là vào mùa hè cách mạng năm 1775, khi người lớn tuổi của Mỹ một lần nữa thỉnh cầu Thiên Chúa, triệu tập người trẻ tuổi để chiến đấu, và thách thức kẻ thù đáng ghét nổ súng. “Khi cha ông chúng ta đang lăn lộn tại chiến lũy ở Bunker Hill”. Hawthrone tiếp tục, “suốt đêm đó, người chiến binh già đã đi lòng vòng ở đó”. Chiến binh già này – cùng trang lứa với Sam Adams hay Ben Franklin hay Samuel Langdon (Chủ tịch Harvard, người rao giảng trước các chiến binh Bunker Hill) – thuộc về Thế hệ Thức tỉnh, họ đã dùng tuổi thanh xuân để tạo ra các cội rễ tinh thần chủ yếu của nền cộng hòa mà đã trở nên vững chắc khi họ về già.
Hawthrone viết huyền thoại khuấy động lòng người này vào năm 1837, khi còn là một người đàn ông trẻ ở tuổi 33. Những người lính trong trận Bunker Hill thuộc về thế hệ cha chú của ông, khi đó đều đã lớn tuổi. Cả nước bước vào cuộc tranh luận mới (về chế độ nô lệ) và có một kẻ thù mới (Mexico), nhưng không ai ngờ rằng những người già của kỷ nguyên đó – từng trải như John Marshall và John Jacob Astor – lại đóng vai trò của Quán quân Già.
“Có thể rất lâu nữa mới tới kỷ nguyên ông ấy tái xuất!” Hawthrone tiên tri. “Thời khắc của ông ấy là thời của bóng tối, nghịch cảnh, và hiểm nguy. Như nếu chế độ độc tài trong nước áp bức chúng ta, hoặc bước chân quân xâm lược làm vấy bẩn mảnh đất chúng ta, vẫn mong song Quán quân Già sẽ đến”. Dù Hawthrone không nói đó là khi nào, nhưng có lẽ ông đã biết.
Nếu như nhà văn trẻ ấy nhẩm đến tám hoặc chín thập niên từ Bunker Hill trở về trước, hoặc là hình dung ra tuổi già của những kẻ cuồng nộ trẻ (như Joseph Smith, Nat Turner, và William Lloyd Garrison) mà mới đây đã làm xáo trộn linh hồn của Mỹ, ông đã có thể thấy trước rằng Quán quân Già tiếp theo sẽ xuất hiện từ Thế hệ Siêu việt của chính ông. Với linh hồn được Thiên Chúa thiêu đốt khi còn trẻ, những người đồng đẳng với Hawthrone đã mang định mệnh trong đời là phải đối mặt với thời khắc của “bóng tối, nghịch cảnh, và hiểm nguy”. Người linh mục kiêm chiến binh già sẽ lại xuất hiện ra trong hình ảnh của John Brown khi nguyền rủa kẻ bất lương từ giàn thiêu; của Julia Ward Howe khi viết “một mệnh lệnh Phúc âm rực lửa giữa những hàng kiếm bóng loáng”; của William Tecumseh Sherman khi thiêu đốt Georgia với “tia sét định mệnh của thanh kiếm nhanh đến khiếp sợ của Ngài”; của Robert E. Lee khi chỉ huy hàng ngàn thanh niên chiến đấu đến chết tại Nghĩa trang Ridge; và đặc biệt là Abraham Lincoln khi tuyên bố trước Nghị viện rằng “những thử thách dữ dội mà chúng ta vượt qua sẽ soi sáng chúng ta trong vinh quang hoặc nhục nhã cho đến thế hệ cuối cùng”.
Nếu Hawthrone tiên tri được tám thập niên sau này, ông đã có thể báo trước sự xuất hiện của một Quán quân Già với thời thơ ấu bắt đầu ngay sau “thử thách dữ dội” trong tuổi già của Hawthrone. Thế hệ này khi tới tuổi trưởng thành sẽ thiêu đốt thế giới mà người lớn tuổi đã xây dựng với ngọn lửa nhiệt thành, và rồi một nửa saeculum sau, hoàn thành cuộc hẹn tự đặt ra với số phận như “những ông già khôn ngoan của Thế chiến II”. Khi thêm Thế hệ Sứ mệnh của Franklin Roosevelt vào sự tái diễn đó, câu chuyện của Hawthrone sẽ không chỉ được kể hai lần, mà là bốn lần.
Khi những thế hệ tổ tiên bước qua các cánh cổng lớn này của lịch sử, họ thấy ở Quán quân Già một kiểu người lớn tuổi rất khác so với những người già sôi động trong quá khứ gần đây của Mỹ và với những “Chú Sam” sống sót trong Cách mạng Mỹ thập niên 1830, lúc Hawthrone viết câu chuyện của mình. Những linh mục-chiến binh già này là ai? Họ là hiện thân già cả cho nguyên mẫu Tiên tri. Và khi họ đến tuổi già cũng là lúc báo trước một nhóm mới của các thế hệ.
Cũng vào thời khắc lịch sử ấy, các nguyên mẫu khác đang ở đâu? Những ai đang bước vào tuổi trung niên năm 1689? Những kẻ xảo quyệt như cựu hải tặc Benjamin Church, hoặc liều lĩnh như Jacob Leister, các nhà lãnh đạo trong một Thế hệ Kỵ sĩ vốn phải đương đầu với nhiều nghịch cảnh (và có nhiều tội ác) hơn bất kỳ nhóm người nào trong những cư dân của Tân Thế giới. Năm 1775? Những người cùng Thế hệ Tự do của George Washing, giỏi xử lý các nhiệm vụ khắc nghiệt hơn của lịch sử. Năm 1865? Những đại tá hào hiệp Thế hệ Vàng son, những nông dân tàn tạ, những nhà công nghiệp hoài nghi, và một sát thủ đơn độc. Và năm 1944? Các cựu chiến binh của Thế hệ Lạc lõng với những vị tướng can trường và chính khách khiêm tốn đã đưa ra những lựa chọn khó khăn, trong khi các anh hùng chiến trường trẻ tuổi giành được lời ngợi khen. Đây là các nguyên mẫu Du cư.
Ai đang đến tuổi trưởng thành? Thế hệ Huy hoàng với tinh thần đồng đội và lạc quan của Cotton Mather; Thomas Jefferson, James Madison, và Alexander Hamilton của Thế hệ Cộng hòa, những người đạt được thành tựu xã hội vĩ đại nhất trong lịch sử Mỹ; và những người thuộc Thế hệ Vĩ đại nhất, từng trèo lên các vách đá ở Point du Hoc và khai thác bí mật về nguyên tử. Đây là các nguyên mẫu Anh hùng.
Ai là những đứa trẻ? Trẻ em thuộc Thế hệ Khai sáng sau này trở thành những sinh viên đầu tiên ở Đại học Yale và Đại học William và Mary, sau này còn là các chuyên gia lịch sự kiên nhẫn chờ đợi để kế thừa các thiết chế thuộc địa mới được người lớn tuổi thành lập; John Quincy Adams của Thế hệ Thỏa hiệp đã khóc khi đứng từ xa nhìn bạn bè của cha mình từng chiến đấu và chết tại Trận đánh Bunker Hill; Theodore Roosevelt của Thế hệ Cấp tiến được công kênh trên vai cha mẹ khi xem chuyến tàu tang lễ cảu Lincoln chạy qua; và Michael Dukakis mới 8 tuổi vào Chủ nhận diễn ra trận Trân Châu Cảng và 10 tuổi hồi D-Day, nghe cha mẹ nói chuyện về tạo lập một trật tự chính trị và toàn cầu mà sau này ông sẽ cố gắng cải thiện. Đây là các nguyên mẫu Nghệ sĩ.
Tại mỗi cánh cổng vĩ đại này của lịch sử, cách nhau 80 đến 100 năm, một câu chuyện kịch tính về thế hệ tương tự vậy lại lật mở. Bốn nguyên mẫu, được xếp đặt theo cùng một thứ tự – Tiên tri lớn tu6ỏi, Du cư trung niên, Anh hùng thanh niên, Nghệ sĩ trẻ nhỏ – đã cùng nhau viết nên những truyền thuyết có sức sống dài lâu nhất trong lịch sử chúng ta. Mỗi lần Quán quân Già xuất hiện lại đánh dấu sự khởi đầu một thời khắc của “bóng tối, nghịch cảnh, và hiểm nguy”, đỉnh cao của Bước chuyển Thứ tư trong saeculum.
Trong tự nhiên, mùa sắp tới luôn là mùa đã rời khỏi trí nhớ xa nhất. Điều tương tự cũng xảy ra trong lịch sử Mỹ, cả quá khứ lẫn hiện tại. Ngày nay, có chưa đến 10% người Mỹ từng trong độ tuổi đi lính (hoặc làm công nhân quốc phòng) hồi D-Day, đỉnh cao của Bước chuyển Thứ tư gần đây nhất. Ít hơn 2% người nhớ được đầy đủ thứ thứ Ba Đen tối năm 1929, khi Mỹ bước vào một mùa đông saeculum gần đây nhất. Trong số những người trẻ hơn họ, ít ai có thể biểu hiện nhanh chóng tâm trạng của thời kỳ Tan rã và sự khác biệt cơ bản của nó ra sao. Người Mỹ luôn không thấy được bước chuyển tiếp theo cho đến khi nó đã quá rõ ràng.
Chúng ta có thể coi mình là bậc thầy của tự nhiên, người kiểm soát mọi sự thay đổi và tiến bộ, ngoại trừ các mùa trong lịch sử. Song chúng ta càng cố ngăn cản quy luật theo mùa và cố tiêu diệt nó, thì cái nhìn của chúng ta về thời gian và tương lai càng thể hiện tính hăm dọa hơn. Hầu hết người Mỹ trưởng thành ngày nay lớn lên trong một xã hội mà người dân mơ ước những kết quả được cải thiện vĩnh viễn: công việc tốt hơn, ví tiền dày hơn, chính phủ mạnh hơn, văn hóa hay hơn, gia đình tốt hơn, trẻ em thông minh hơn – tất cả thành quả thường thấy về sự tiến bộ. Hôm nay, ở sâu trong Bước chuyển Thứ ba, cảm giác như những mục tiêu đó đang vuột đi mất. Nhiều người trong chúng ta ước muốn có thể quay ngược thời gian, nhưng chúng ta biết là không thể, và chúng ta lo sợ cho con cháu mình.
Ở một khía cạnh nào đó, người Mỹ giống như một tộc người nguyên thủy, cảm thấy cái lạnh hanh khô của mùa thu ngày càng vây tỏa, họ trở nên hoài niệm về mùa xuân trong khi tự hỏi làm thế nào (hoặc thậm chí là liệu) hơi ấm áp kia quay trở lại. Nhiều người Mỹ ước rằng, bằng cách nào đó, họ có thể mang mùa xuân saeculum quay trở lại bây giờ. Nhưng các mùa lại không hoạt động theo cách đó. Như trong tự nhiên, mùa thu saeculum có thể ấm áp hoặc mát mẻ, dài hoặc ngắn, nhưng lá cây thì chắc hẳn sẽ rụng. Mùa đông saeculum có thể tới vội vàng hoặc chậm rãi, nhưng lịch sử cảnh báo rằng nó chắc chắn sẽ xảy đến với chúng ta.
Chúng ta có thể không ước mong Quán quân Già trở lại – nhưng ông ấy phải đến, và sẽ đến.
Chặng tiếp theo trong hành trình của bạn có một phần là lịch sử, một phần là tiên tri. Nó bắt đầu với sự kết thúc của Thế chiến II, đi qua hiện tại, và kéo dài đến tuổi già của những người hôm nay đang là thanh niên. Bạn sẽ học lại lịch sử Mỹ gần đây từ góc độ mùa, như sự hợp lưu của những cuộc đời và thời đại quen thuộc. Bạn sẽ tìm hiểu về sự thay đổi tâm trạng theo sau mấy năm cửa ngõ vào giữa những thập niên 1940, 1960 và 1980. Bạn sẽ làm quen lại với chính mình qua những thế hệ của hôm nay vì các nguyên mẫu chuyển sang một nhóm mới với mỗi bước chuyển mới. Bạn sẽ biết được điều này có thể có ý nghĩa gì trong Bước chuyển Thứ tư sắp tới.
Lần này, bài học lịch sử sẽ là câu chuyện cuộc đời của chính bạn.
TH: T.Giang – CSCI Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019.