Những quán quân già


Một chiều tháng 4 năm 1689, khi mấy thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ đang sôi lên với tin đồn rằng Vua James II sắp tước bỏ các quyền tự do của họ. Thống đốc New England do nhà vua chỉ định, Ngài Edmund Andros, đã cho quân đội của mình diễu qua Boston với vẻ đe dọa. Mục đích của ông ta là đè bẹp bất kỳ ý nghĩ nào về tự trị thuộc địa. Đối với mọi người lúc ấy, tương lai có vẻ ảm đạm.

Đúng lúc đó, dường như từ hư không, xuất hiện trên đường phố “hình ảnh một người đàn ông cao tuổi” với “con mắt, khuôn mặt, thái độ của người chỉ huy”. Cung cách của ông già này “kết hợp giữa nhà lãnh đạo với vị thánh”, đứng trấn ngay giữa đường đi của những binh lính Anh đang tiến lại gần và yêu cầu họ dừng lại. “Giọng nói ấy với âm thanh trang trọng và hùng dũng thích hợp để thống lĩnh một đạo quân trên chiến trường hoặc vang tới Thiên Chúa khi cầu nguyện, không thể cưỡng lại được. Trước lời nói và cánh tay dang ra của ông già, tiếng trống đang vang rền bỗng im bặt, và hàng lính đang tiến lên đứng khựng lại”.

Được truyền cảm hứng từ hành động phản kháng đơn lẻ này, người dân Boston đã thức tỉnh lòng dũng cảm và họ hành động. Trong ngày hôm đó, Andros bị lật đổ và bỏ tù, tự do của Boston được cứu nguy, và phân cảnh ấy đã khởi đầu cho Cách mạng Vinh quang tại thuộc địa.

“Quán quân Già này là ai?” Nathaniel Hawthrone đặt câu hỏi ở gần cuối câu chuyện này trong cuốn Twice-Told Tales (Tạm dịch: Truyện kể hai lần) của mình. Không ai biết gì ngoại trừ việc ông từng là một trong những người Thanh giáo trẻ đầy nhiệt huyết, những người đầu tiên sống tại New England hơn nửa thế kỷ trước đó. Tối hôm ấy, ngay trước khi người linh mục-chiến binh già ấy biến mất, người dân thị trấn thấy ông ôm hôn Simon Bradstreet 85 tuổi, một tâm hồn đồng điệu và là một trong số ít người Thanh giáo gốc vẫn còn sống. Liệu Quán quân Già ấy có bao giờ trở lại? “Tôi nghe nói”, Hawthrone nói thêm, “rằng bất kỳ khi nào con cháu của những người Thanh giáo cần thể hiện tinh thần của cha ông mình, ông già ấy sẽ lại xuất hiện”.

Hậu thế đã phải chờ đợi một thời gian trước khi được thấy ông một lần nữa – thực tế, đó là quãng thời gian dài một đời người. Hawthrone viết, “Khi 80 năm trôi qua”, Quán quân Già lại xuất hiện. Đó là vào mùa hè cách mạng năm 1775, khi người lớn tuổi của Mỹ một lần nữa thỉnh cầu Thiên Chúa, triệu tập người trẻ tuổi để chiến đấu, và thách thức kẻ thù đáng ghét nổ súng. “Khi cha ông chúng ta đang lăn lộn tại chiến lũy ở Bunker Hill”. Hawthrone tiếp tục, “suốt đêm đó, người chiến binh già đã đi lòng vòng ở đó”. Chiến binh già này – cùng trang lứa với Sam Adams hay Ben Franklin hay Samuel Langdon (Chủ tịch Harvard, người rao giảng trước các chiến binh Bunker Hill) – thuộc về Thế hệ Thức tỉnh, họ đã dùng tuổi thanh xuân để tạo ra các cội rễ tinh thần chủ yếu của nền cộng hòa mà đã trở nên vững chắc khi họ về già.

Hawthrone viết huyền thoại khuấy động lòng người này vào năm 1837, khi còn là một người đàn ông trẻ ở tuổi 33. Những người lính trong trận Bunker Hill thuộc về thế hệ cha chú của ông, khi đó đều đã lớn tuổi. Cả nước bước vào cuộc tranh luận mới (về chế độ nô lệ) và có một kẻ thù mới (Mexico), nhưng không ai ngờ rằng những người già của kỷ nguyên đó – từng trải như John Marshall và John Jacob Astor – lại đóng vai trò của Quán quân Già.

“Có thể rất lâu nữa mới tới kỷ nguyên ông ấy tái xuất!” Hawthrone tiên tri. “Thời khắc của ông ấy là thời của bóng tối, nghịch cảnh, và hiểm nguy. Như nếu chế độ độc tài trong nước áp bức chúng ta, hoặc bước chân quân xâm lược làm vấy bẩn mảnh đất chúng ta, vẫn mong song Quán quân Già sẽ đến”. Dù Hawthrone không nói đó là khi nào, nhưng có lẽ ông đã biết.

Nếu như nhà văn trẻ ấy nhẩm đến tám hoặc chín thập niên từ Bunker Hill trở về trước, hoặc là hình dung ra tuổi già của những kẻ cuồng nộ trẻ (như Joseph Smith, Nat Turner, và William Lloyd Garrison) mà mới đây đã làm xáo trộn linh hồn của Mỹ, ông đã có thể thấy trước rằng Quán quân Già tiếp theo sẽ xuất hiện từ Thế hệ Siêu việt của chính ông. Với linh hồn được Thiên Chúa thiêu đốt khi còn trẻ, những người đồng đẳng với Hawthrone đã mang định mệnh trong đời là phải đối mặt với thời khắc của “bóng tối, nghịch cảnh, và hiểm nguy”. Người linh mục kiêm chiến binh già sẽ lại xuất hiện ra trong hình ảnh của John Brown khi nguyền rủa kẻ bất lương từ giàn thiêu; của Julia Ward Howe khi viết “một mệnh lệnh Phúc âm rực lửa giữa những hàng kiếm bóng loáng”; của William Tecumseh Sherman khi thiêu đốt Georgia với “tia sét định mệnh của thanh kiếm nhanh đến khiếp sợ của Ngài”; của Robert E. Lee khi chỉ huy hàng ngàn thanh niên chiến đấu đến chết tại Nghĩa trang Ridge; và đặc biệt là Abraham Lincoln khi tuyên bố trước Nghị viện rằng “những thử thách dữ dội mà chúng ta vượt qua sẽ soi sáng chúng ta trong vinh quang hoặc nhục nhã cho đến thế hệ cuối cùng”.

Nếu Hawthrone tiên tri được tám thập niên sau này, ông đã có thể báo trước sự xuất hiện của một Quán quân Già với thời thơ ấu bắt đầu ngay sau “thử thách dữ dội” trong tuổi già của Hawthrone. Thế hệ này khi tới tuổi trưởng thành sẽ thiêu đốt thế giới mà người lớn tuổi đã xây dựng với ngọn lửa nhiệt thành, và rồi một nửa saeculum sau, hoàn thành cuộc hẹn tự đặt ra với số phận như “những ông già khôn ngoan của Thế chiến II”. Khi thêm Thế hệ Sứ mệnh của Franklin Roosevelt vào sự tái diễn đó, câu chuyện của Hawthrone sẽ không chỉ được kể hai lần, mà là bốn lần.

Khi những thế hệ tổ tiên bước qua các cánh cổng lớn này của lịch sử, họ thấy ở Quán quân Già một kiểu người lớn tuổi rất khác so với những người già sôi động trong quá khứ gần đây của Mỹ và với những “Chú Sam” sống sót trong Cách mạng Mỹ thập niên 1830, lúc Hawthrone viết câu chuyện của mình. Những linh mục-chiến binh già này là ai? Họ là hiện thân già cả cho nguyên mẫu Tiên tri. Và khi họ đến tuổi già cũng là lúc báo trước một nhóm mới của các thế hệ.

Cũng vào thời khắc lịch sử ấy, các nguyên mẫu khác đang ở đâu? Những ai đang bước vào tuổi trung niên năm 1689? Những kẻ xảo quyệt như cựu hải tặc Benjamin Church, hoặc liều lĩnh như Jacob Leister, các nhà lãnh đạo trong một Thế hệ Kỵ sĩ vốn phải đương đầu với nhiều nghịch cảnh (và có nhiều tội ác) hơn bất kỳ nhóm người nào trong những cư dân của Tân Thế giới. Năm 1775? Những người cùng Thế hệ Tự do của George Washing, giỏi xử lý các nhiệm vụ khắc nghiệt hơn của lịch sử. Năm 1865? Những đại tá hào hiệp Thế hệ Vàng son, những nông dân tàn tạ, những nhà công nghiệp hoài nghi, và một sát thủ đơn độc. Và năm 1944? Các cựu chiến binh của Thế hệ Lạc lõng với những vị tướng can trường và chính khách khiêm tốn đã đưa ra những lựa chọn khó khăn, trong khi các anh hùng chiến trường trẻ tuổi giành được lời ngợi khen. Đây là các nguyên mẫu Du cư.

Ai đang đến tuổi trưởng thành? Thế hệ Huy hoàng với tinh thần đồng đội và lạc quan của Cotton Mather; Thomas Jefferson, James Madison, và Alexander Hamilton của Thế hệ Cộng hòa, những người đạt được thành tựu xã hội vĩ đại nhất trong lịch sử Mỹ; và những người thuộc Thế hệ Vĩ đại nhất, từng trèo lên các vách đá ở Point du Hoc và khai thác bí mật về nguyên tử. Đây là các nguyên mẫu Anh hùng.

Ai là những đứa trẻ? Trẻ em thuộc Thế hệ Khai sáng sau này trở thành những sinh viên đầu tiên ở Đại học Yale và Đại học William và Mary, sau này còn là các chuyên gia lịch sự kiên nhẫn chờ đợi để kế thừa các thiết chế thuộc địa mới được người lớn tuổi thành lập; John Quincy Adams của Thế hệ Thỏa hiệp đã khóc khi đứng từ xa nhìn bạn bè của cha mình từng chiến đấu và chết tại Trận đánh Bunker Hill; Theodore Roosevelt của Thế hệ Cấp tiến được công kênh trên vai cha mẹ khi xem chuyến tàu tang lễ cảu Lincoln chạy qua; và Michael Dukakis mới 8 tuổi vào Chủ nhận diễn ra trận Trân Châu Cảng và 10 tuổi hồi D-Day, nghe cha mẹ nói chuyện về tạo lập một trật tự chính trị và toàn cầu mà sau này ông sẽ cố gắng cải thiện. Đây là các nguyên mẫu Nghệ sĩ.

Tại mỗi cánh cổng vĩ đại này của lịch sử, cách nhau 80 đến 100 năm, một câu chuyện kịch tính về thế hệ tương tự vậy lại lật mở. Bốn nguyên mẫu, được xếp đặt theo cùng một thứ tự – Tiên tri lớn tu6ỏi, Du cư trung niên, Anh hùng thanh niên, Nghệ sĩ trẻ nhỏ – đã cùng nhau viết nên những truyền thuyết có sức sống dài lâu nhất trong lịch sử chúng ta. Mỗi lần Quán quân Già xuất hiện lại đánh dấu sự khởi đầu một thời khắc của “bóng tối, nghịch cảnh, và hiểm nguy”, đỉnh cao của Bước chuyển Thứ tư trong saeculum.

Trong tự nhiên, mùa sắp tới luôn là mùa đã rời khỏi trí nhớ xa nhất. Điều tương tự cũng xảy ra trong lịch sử Mỹ, cả quá khứ lẫn hiện tại. Ngày nay, có chưa đến 10% người Mỹ từng trong độ tuổi đi lính (hoặc làm công nhân quốc phòng) hồi D-Day, đỉnh cao của Bước chuyển Thứ tư gần đây nhất. Ít hơn 2% người nhớ được đầy đủ thứ thứ Ba Đen tối năm 1929, khi Mỹ bước vào một mùa đông saeculum gần đây nhất. Trong số những người trẻ hơn họ, ít ai có thể biểu hiện nhanh chóng tâm trạng của thời kỳ Tan rã sự khác biệt cơ bản của nó ra sao. Người Mỹ luôn không thấy được bước chuyển tiếp theo cho đến khi nó đã quá rõ ràng.

Chúng ta có thể coi mình là bậc thầy của tự nhiên, người kiểm soát mọi sự thay đổi và tiến bộ, ngoại trừ các mùa trong lịch sử. Song chúng ta càng cố ngăn cản quy luật theo mùa và cố tiêu diệt nó, thì cái nhìn của chúng ta về thời gian và tương lai càng thể hiện tính hăm dọa hơn. Hầu hết người Mỹ trưởng thành ngày nay lớn lên trong một xã hội mà người dân mơ ước những kết quả được cải thiện vĩnh viễn: công việc tốt hơn, ví tiền dày hơn, chính phủ mạnh hơn, văn hóa hay hơn, gia đình tốt hơn, trẻ em thông minh hơn – tất cả thành quả thường thấy về sự tiến bộ. Hôm nay, ở sâu trong Bước chuyển Thứ ba, cảm giác như những mục tiêu đó đang vuột đi mất. Nhiều người trong chúng ta ước muốn có thể quay ngược thời gian, nhưng chúng ta biết là không thể, và chúng ta lo sợ cho con cháu mình.

Ở một khía cạnh nào đó, người Mỹ giống như một tộc người nguyên thủy, cảm thấy cái lạnh hanh khô của mùa thu ngày càng vây tỏa, họ trở nên hoài niệm về mùa xuân trong khi tự hỏi làm thế nào (hoặc thậm chí là liệu) hơi ấm áp kia quay trở lại. Nhiều người Mỹ ước rằng, bằng cách nào đó, họ có thể mang mùa xuân saeculum quay trở lại bây giờ. Nhưng các mùa lại không hoạt động theo cách đó. Như trong tự nhiên, mùa thu saeculum có thể ấm áp hoặc mát mẻ, dài hoặc ngắn, nhưng lá cây thì chắc hẳn sẽ rụng. Mùa đông saeculum có thể tới vội vàng hoặc chậm rãi, nhưng lịch sử cảnh báo rằng nó chắc chắn sẽ xảy đến với chúng ta.

Chúng ta có thể không ước mong Quán quân Già trở lại – nhưng ông ấy phải đến, và sẽ đến.

Chặng tiếp theo trong hành trình của bạn có một phần là lịch sử, một phần là tiên tri. Nó bắt đầu với sự kết thúc của Thế chiến II, đi qua hiện tại, và kéo dài đến tuổi già của những người hôm nay đang là thanh niên. Bạn sẽ học lại lịch sử Mỹ gần đây từ góc độ mùa, như sự hợp lưu của những cuộc đời và thời đại quen thuộc. Bạn sẽ tìm hiểu về sự thay đổi tâm trạng theo sau mấy năm cửa ngõ vào giữa những thập niên 1940, 1960 và 1980. Bạn sẽ làm quen lại với chính mình qua những thế hệ của hôm nay vì các nguyên mẫu chuyển sang một nhóm mới với mỗi bước chuyển mới. Bạn sẽ biết được điều này có thể có ý nghĩa gì trong Bước chuyển Thứ tư sắp tới.

Lần này, bài học lịch sử sẽ là câu chuyện cuộc đời của chính bạn.

TH: T.Giang – CSCI Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019.

Các chu kỳ của lịch sử – Phần cuối


Các bước chuyển

+ Lạc quan Mỹ (Bước chuyển Thứ nhất, 1946 – 1964) đã chứng kiến uy thế của Mỹ với tư cách là một siêu cường toàn cầu. Các phong trào xã hội bị đình trệ. Tầng lớp trung lưu tăng trưởng và thịnh vượng. Các tôn giáo ủng hộ chính quyền. Ngân sách quốc phòng lớn trong thời bình không hề gây tranh cãi. Thị hiếu đại chúng phát triển mạnh trên đỉnh một cơ sở hạ tầng tập thể của vùng ngoại ô, giữa các bang, và chi phối truyền thông. Tuyên bố “kết thúc ý thức hệ”, chính quyền đáng kính chủ trì một nền văn hóa nhạt nhẽo, tân thời và vô hồn.

Thế hệ Lạc lõng bước vào tuổi già.

Thế hệ Vĩ đại nhất bước vào tuổi trung niên.

Thế hệ Im lặng đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Bùng nổ bước vào thời thơ ấu.

+ Cách mạng Nhận thức (Bước chuyển Thứ hai, 1964 – 1984), bắt đầu với những cuộc bạo loạn ở thành thị và cơn cuồng nộ của sinh viên, nổi lên bên cạnh những cuộc biểu tình chống Chiến tranh Việt Nam và sự nổi loạn phản văn hóa. Nó làm gia tăng các phong trào về nữ quyền, môi trường, và quyền của người da đen, khiến tỉ lệ tội phạm bạo lực và đổ vỡ gia đình tăng vọt. Sau khi căng thẳng lên đến đỉnh điểm với vụ Watergate (năm 1974), những đam mê lại hướng về lối sống Thời đại Mới và sự tái sinh tinh thần. Tâm trạng này chấm dứt trong chiến dịch tái tranh cử lạc quan của Reagan, khi những hippie ngày nào đã hướng đến việc nuôi dưỡng ước mơ cho hoài bão tuổi trẻ của họ.

Thế hệ Vĩ đại nhất bước vào tuổi già.

Thế hệ Im lặng sang tuổi trung niên.

Thế hệ Bùng nổ đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Thứ 13 bước vào thời thơ ấu.

+ Chiến tranh Văn hóa (Bước chuyển Thứ ba, 1984 – 2005?), bắt đầu bằng chủ nghĩa cá nhân trong chương trình Morning in America đầy hoan hỉ, đến nay đã phần nào chuyển hướng bi quan. Sự tự tin cá nhân vẫn cao, và vài vấn đề quốc gia đòi hỏi hành động ngay lập tức. Nhưng công chúng mơ hồ cảm thấy bạo lực và sự khiếm nhã ngày càng tăng, bất bình đẳng ngày càng lan rộng, các thiết chế và người lãnh đạo ngày càng mất uy tín, và một nền văn hóa đại chúng thối nát. Người ta sợ rằng sự đồng thuận quốc gia đang phân hóa thành những phe phái cạnh tranh nhau về giá trị.

Thế hệ Im Lặng bước vào tuổi già.

Thế hệ Bùng nổ sang tuổi trung niên.

Thế hệ Thứ 13 đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Thiên niên kỷ bước vào thời thơ ấu.

+ Khủng hoảng Thiên niên kỷ, Bước chuyển Thứ tư của Saeculum Thiên niên kỷ vẫn chưa đến. Nhóm thế hệ dự kiến của bước chuyển này bao gồm:

Thế hệ Bùng nổ bước vào tuổi già.

Thế hệ Thứ 13 sang tuổi trung niên.

Thế hệ Thiên niên kỷ đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Im lặng Mới bước vào thời thơ ấu.

Các thế hệ

+ Thế hệ Bùng nổ (Tiên tri, sinh trong khoảng 1943 – 1960) là những trẻ em được ấp ủ dưới thời Bác sĩ Spock dễ dãi, thuyết tuân thủ ngoại ô, đi học ở kỷ nguyên Sputnik, thân thiện Beaver Cleaver, và trật tự gia đình như trong Father Knows Best (Tạm dịch: Cha là người thấu hiểu nhất). Từ Mùa hè Tình yêu đến Những ngày Thịnh nộ, họ đến tuổi trưởng thành cùng sự nổi loạn chống lại những kế hoạch trần tục của cha mẹ mình. Là dân hippie chuyên chống lại văn hóa và quy ước chung của xã hội. Băng đảng Báo đen, tổ chức ngầm Weathermen, và những thành viên của phong trào “mến mộ Jesus” tuyên bố mình là người phán xử của đạo đức xã hội, những bệnh lý thanh thiếu niên trở nên tồi tệ – và kỳ thi SAT bắt đầu ở tuổi 17. Vào đầu thập niên 1980, nhiều thanh niên trở thành “người trẻ” ích kỷ với nghề nghiệp hợp thời nhưng có lối sống cầu toàn. Bước vào tuổi trung niên (và nắm quyền lực quốc gia), họ tung hô các giá trị, cố quảng bá “chính trị có ý nghĩa” và tiến hành những cuộc Chiến tranh Văn hóa có tính phá hủy. (Người Mỹ: Bill Clinton, Newt Gingrich, Steven Spielberg, Candice Bergen, Spike Lee, Bill Gates; Người nước ngoài: Tony Blair, Binyamin Netanyahu).

+ Thế hệ Thứ 13 (Du cư, sinh trong khoảng 1961 – 1981) sống sót sau một thời thơ ấu vội vã của ly hôn, tự xoay sở khi ở nhà một mình, những lớp học mở, những bộ phim về lũ quỷ nhỏ, và một sự thay đổi từ hạng G sang hạng R. Đến tuổi trưởng thành, tỉ lệ gia tăng của tội phạm thanh thiếu niên và trượt các bài thi giảm dần, nhưng tự họ tố cáo sự hoang dã và ngu ngốc khi đẩy The Nation at Risk (Tạm dịch: Quốc gia lâm nguy). Thời thanh niên, khéo léo vượt qua trận chiến lây lan những căn bệnh tình dục như AIDS và mấy màn cưa cẩm lỗi thời, họ hẹn hò và kết hôn một cách thận trọng. Trong công việc, họ chấp nhận rủi ro và thích làm việc tự do hơn là gắn bó trung thành với một công ty. Từ nhạc grunge đến hip-hop, nền văn hóa đa dạng ở họ thể hiện một lợi thế vượt trội. Về chính trị, họ nghiêng về chủ nghĩa thực dụng và phi liên kết, thích sự tự nguyện hơn là bỏ phiếu. Thường bị chỉ trích là Thế hệ X hoặc những kẻ phất phơ, họ sống trong một nền kinh tế Reality Bites (Tạm dịch: Những lát cắt hiện thực) với mức sống của thanh niên ngày càng giảm. (Người Mỹ: Tom Cruise, Jodie Foster, Michael Dell, Deion Sanders, Winoma Ryder, Quentin Tarantino; Người nước ngoài: Công nương Diana, Alanis Morissette).

+ Thế hệ Thiên niên kỷ (Anh hùng?, sinh trong khoảng 1982 – ?) xuất hiện lần đầu tiên khi những dấu hiệu “Trên xe có trẻ em” ra đời. Khi tỉ lệ phá thai và ly hôn giảm xuống, nền văn hóa đại chúng bắt đầu kỳ thị kiểu cha mẹ không quan tâm đến con cái và lại coi trẻ em là điều đặc biệt. Việc lạm dụng bạo hành trẻ em và sự an toàn cho con trẻ trở thành chủ đề nóng, trong khi sách dạy về đạo đức và các giá trị trở thành bán chạy nhất. Ngày nay, các chính khách xem xét những vấn đề người lớn (từ cắt giảm thuế đến thâm hụt ngân sách) trên phương diện ảnh hưởng của chúng đối với trẻ em. Hollywood thay thế lũ quỷ nhỏ trong phim ảnh bằng các thiên thần nhỏ, truyền hình cáp và Internet bao vây nơi trú ẩn thân thiện với trẻ em. Trong khi những nhà giáo dục nói về các tiêu chuẩn và học cách hợp tác, đồng phục học sinh ngày càng phổ biến. Với những người lớn nhìn nhận trẻ em tích cực hơn, điểm thi của Mỹ ở tình trạng tốt hơn trong tương quan so sánh quốc tế. (Người Mỹ: Jessica McClure, Cặp song sinh nhà Olsen, Baby Richard, Elisa Lopez, Dooney Waters, Jessica Dubroff; Người nước ngoài: Anna Paquin, Hoàng tử William).

Nguyên mẫu Nghệ sĩ của Saeculum Thiên niên kỷ chưa ra đời.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XVIII


Các bước chuyển

+ Thời kỳ tái thiết và Vàng son (Bước chuyển Thứ nhất, 1865 – 1886) chứng kiến các nhóm tham gia vận động cũ bị gạt sang một bên, trong khi theo những ghi chú của Van Wyck Brooks, các cựu chiến binh này “có thể là các nhà văn ở thời đại của tạp chí The Dial đang tìm kiếm vận may của mình trong ngành đường sắt, hầm mỏ, và khoan dầu”. Lãi suất tiết kiệm leo thang, sản xuất hàng loạt gào rú, máy móc cơ khí và hệ thống chính trị ngân nga, tiền lương thực tế dâng lên, và các gia đình trung lưu thịnh vượng trong thời đại của chủ nghĩa thực dụng luôn khoe khoang “gái trị kim tiềm của sự thật”.

Thế hệ Siêu việt bước vào tuổi già.

Thế hệ Vàng son snag tuổi trung niên.

Thế hệ Cấp tiến đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Sứ mệnh bước vào thời thơ ấu.

+ Đại thức tỉnh Thứ ba (Bước chuyển Thứ hai, 1886 – 1908), bắt đầu với Bạo động Haymaket và phogn trào truyền giáo sinh viên, cao trào là cuộc biểu tình về ruộng đất và bạo lực lao động, đỉnh điểm là việc ứng cử của Bryan nhằm khôi phục đức tin (năm 1896). Chủ nghĩa hiện thức thời kỳ Vàng son đã phải chịu sự tấn công dữ liệu từ những kẻ hay bới móc mất hết niềm tin, những người theo phái Phúc âm Billy Sunday, những nhà nữ quyền “phụ nữ mới” và những kẻ mộng mơ theo phong trào chautauqua. Sau khi kích động và chia tách phong trào Tiến bộ, nhiệt huyết nguội dần khi William Howard Taft kế nhiệm Teddy Roosevelt ở Nhà Trắng.

Thế hệ Vàng son bước vào tuổi già.

Thế hệ Cấp tiến sang tuổi trung niên.

Thế hệ Sứ mệnh đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Lạc lõng bước vào thời thơ ấu.

+ Thế chiến I và Luật Cấm rượu (Bước chuyển Thứ ba, 1908 – 1929) là một kỷ nguyên của những thay đổi công nghệ chóng mặt, những người nổi tiếng vị kỷ, phân chia giai cấp nới rộng, mất niềm tin, công đoàn tan rã, giới lãnh đạo chính trị có tài nhưng yếu ớt. Sau Thế chiến I, công chúng đắm mình trong những chiến dịch về đạo đức (Hội Quốc liên, Luật Cấm rượu, quyền bầu cử của phụ nữ). Đến thập niên 1920, sự bùng nổ tài chính đầy vui nhộn bị vây quanh bởi những cuộc tranh luận bi quan về ma túy, tiền bạc, sự hoài nghi, bạo lực, nhập cư, và gia đình.

Thế hệ Cấp tiến bước vào tuổi già.

Thế hệ Sứ mệnh sang tuổi trung niên.

Thế hệ Lạc lõng đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Vĩ đại nhất bước vào thời thơ ấu.

+ Đại suy thoái và Thế chiến II (Bước chuyển Thứ tư, 1929 – 1946) bắt đầu đột ngột với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán hôm thứ Ba Đen tối. Sau ba năm rơi tự do về kinh tế, Đại suy thoái dẫn đến cách mạng Chính sách Kinh tế Mới, một sự mở rộng khá lớn của chính phủ và những kỳ vọng về một sự đổi mới của cả cộng đồng quốc gia. Sau trận Trân Châu cảng, Mỹ đã lên kế hoạch, huy động và sản xuất cho chiến tranh trên quy mô lớn để có thể tiến hành cuộc đổ bộ lớn D-Day (năm 1944). Hai năm sau đó, tâm trạng Khủng hoảng dịu bớt với việc sản xuất ngũ cốc thuận lợi một cách bất ngờ ở Mỹ.

Thế hệ Sứ mệnh bước vào tuổi già.

Thế hệ Lạc lõng sang tuổi trung niên.

Thế hệ Vĩ đại nhất đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Im lặng bước vào thời thơ ấu.

Các thế hệ

+ Thế hệ Sứ mệnh (Tiên tri, sinh trong khoảng 1860 – 1882) đã trở thành những đứa trẻ được nuông chiều và bao bọc trong tổ ấm gia đình thời kỳ sau Nội chiến. Họ lớn lên như những người lao động vô chính phủ, sinh viên nổi loạn, người tốt nghiệp đại học đầu tiên đầy tham vọng của các trường da đen và nữ giới. Thiên niên thế hệ này theo đuổi chủ nghĩa dân túy nông thôn, công việc văn phòng, những cuộc vận động lớn truyền giáo, báo chí phê phán, và quyền bầu cử của phụ nữ. Ở tuổi trung niên, các lữ đoàn Đứng đắn của họ và những người theo trào lưu chính thống ban hành Luật Cấm rượu, đàn áp người nhập cư và tổ chức các đội phòng chống tệ nạn. Trong những thập niên 1930 và 1940, giới tinh hoa lớn tuổi trở thành những Trưởng lão Thông thái, họ ban hành Chính sách Kinh tế Mới (và An sinh Xã hội) vì lợi ích của thanh niên, dẫn đầu cuộc chiến toàn cầu chống chủ nghĩa phát xít và tái khẳng định những lý tưởng cao cả của Mỹ trong một kỷ nguyên biến động của lịch sử thế giới. (Người Mỹ: Franklin Roosevelt, W.E.B. Du Bois, William Jennings Bryan, Upton Sinclair, Jane Adams, Douglas MacArthur; Người nước ngoài: Winston Churchill, V.I. Lenin).

+ Thế hệ Lạc lõng (Du cư, sinh trong khoảng 1883 – 1900) lớn lên trong bối cảnh đô thị tàn lụi, sử dụng ma túy vô tội vạ, các cửa hàng bóc lột trẻ em, và nhập cư ồ ạt. Tính độc lập, thái độ khôn khéo khiến họ bị mang tiến xấu là đứa trẻ hư. Khi trưởng thành, họ là những thanh niên, bộ binh Mỹ, và thiếu nữ sôi nổi, nhưng sau đó họ đã bị tách biệt khi trở về quê hương hậu chiến tranh với tâm trạng chua chát. Họ là những tiểu thuyết gia, nhà vận động chính trị, kẻ côn đồ, ngôi sao thể thao, diễn viên điện ảnh nổi tiếng ở lứa tuổi thanh niên, xuất hiện ồ ạt cho đến thập niên 1920. Đại suy thoái tấn công họ vào độ tuổi trung niên, khi họ đang ở đỉnh cao sự nghiệp. Đồng dollar dừng lại cùng với chiến trường hiếu chiến và những nhà quản lý hậu phương của một cuộc chiến tranh nóng và giới lãnh đạo căn cơ thẳng thắn của một cuộc chiến tranh lạnh mới. Khi về già, họ đã trả mức thuế suất cao nhất để hỗ trợ các thế hệ sau chinh phục thế giới, trong khi đòi hỏi rất ít cho bản thân. (Người Mỹ: Harry Truman, Irving Berlin, George Patton, Mae West, F. Scott Fitzgerald, Louis Amstrong; Người nước ngoài: Adolf Hitler, Mao Trạch Đông).

+ Thế hệ Vĩ đại nhất (Anh hùng, sinh trong khoảng 1901 – 1924) lớn lên là những đứa trẻ ngoan và đặc biệt, là đối tượng hưởng lợi của các sân chơi mới, câu lạc bộ hướng đạo, vitamin, và hạn chế lao động trẻ em. Họ lớn lên với tỉ lệ đại học tăng nhanh nhất trong lịch sử. Khi trưởng thành, họ là những quân đoàn mặc quân phục kiên nhẫn chịu đựng chứng trầm cảm và chinh phục oanh liệt kẻ thù ngoại bang. Vào độ tuổi trung niên, họ được trợ cấp bởi Dự luật Thế hệ Vĩ đại, họ xây dựng nên những vùng ngoại ô hào nhoáng, phát minh ra các loại vaccine kỳ diệu, thu hẹp khoảng cách về tên lửa và phóng tàu lên Mặt trăng. Các nhiệm kỳ tổng thống của thế hệ này có sự thấu hiểu chưa từng có, bắt đầu với chính sách Biên giới Mới, Luật An sinh Xã hội và những Thành phố Kiểu mẫu, nhưng bị hao mòn bởi Chiến tranh Việt Nam, vụ Watergate, thâm hụt ngân sách, và các vấn đề với “tầm nhìn”. Khi về già, họ giữ gìn những “quyền lợi” của mình nhưng lại ít có ảnh hưởng đến văn hóa và các giá trị. (Người Mỹ: John Kennedy, Ronald Reagan, Walt Disney, Judy Garland, John Wayne, Walter Cronkite; Người nước ngoài: Willy Brandt, Leonid Brezhnev).

+ Thế hệ Im lặng (Nghệ sĩ, sinh trong khoảng 1925 – 1942) lớn lên như những đứa trẻ ngột ngạt vì chiến tranh và trầm cảm. Họ không kịp trưởng thành để làm anh hùng thời chiến nhưng lại quá sớm để có tinh thần tự do trẻ trung. Thay vào đó, Đám đông Cô đơn kết hôn sớm này đã trở thành những kỹ thuật viên và chuyên gia không ưa mạo hiểm, cũng như các ngôi sao rock “n” roll nhạy cảm và người ủng hộ quyền dân sự trong một kỷ nguyên hậu Khủng hoảng, ở đó sự tuân thủ dường như là một tấm vé chắc chắn dẫn tới thành công. Tuổi trung niên của họ là một “sự chuyển tiếp” đầy lo ngại của một thế hệ bị giằng xé giữa những trưởng lão lãnh đạm và đàn em nhiệt huyết. Sự gia tăng quyền lực của họ trùn ghợp với thời kỳ gia đình ly tán, đa dạng văn hóa, sự phức tạp về thiết kế, và kiện tụng khắp nơi. Họ bước vào tuổi già với sự sung túc chưa từng có, một phong cách tân thời, và sự nổi tiếng về tính hay do dự. (Người Mỹ: Colin Powell, Walter Mondale, Woody Allen, Martin Luther King Jr., Sandra Day O’Connor, Elvis Presley; Người nước ngoài: Anne Frank, Mikhail Gorbachev).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XVII


Các bước chuyển

+ Kỷ nguyên Hạnh phúc (Bước chuyển Thứ nhất, 1794-1822) đã chứng kiến những gì Joel Barlow gọi là Cuộc Chinh phục Canaan, một kỷ nguyên sử thi của sự hòa hợp xã hội và xây dựng đế chế. Những vùng lãnh thổ mới rộng lớn được định cư và xác lập trên bản đồ Kênh mương, tàu hơi nước, và đường cao tốc thu phí đã đẩy lùi sự hoang dã. Kể cả cuộc chiến ngớ ngẩn (năm 1812) cũng đã kết thúc bằng việc thống nhất đất nước. Mất trật tự xã hội là rất hiếm – vì sự hiếu kỳ về tinh thần trong một thời đại (như Emerson đã viết) “có thể không sinh ra nổi một cuốn sách… hay một tưởng có giá trị”.

Thế hệ Tự do bước vào tuổi già.

Thế hệ Cộng hòa sang tuổi trung niên.

Thế hệ Thỏa hiệp đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Siêu việt bước vào thời thơ ấu.

+ Thức tỉnh Tiên nghiệm (Bước chuyển Thứ hai, 1822 – 1844) bắt đầu với thuyết Phúc âm của Charles Finney và khởi nghĩa nô lệ của Denmark Vesey. Sớm hợp nhất với chủ nghĩa dân túy của Jackson, thời kỳ này đạt đỉnh cao (năm 1831) với Nổi loạn của Nat Turner, sự thành lập của các hội kêu gào ủng hộ chủ nghĩa bãi nô, và sự gia tăng của các đảng phái chính trị ly khai. Sau khi đẻ ra một thứ chủ nghĩa lý tưởng lãng mạn đầy mạnh mẽ – bao gồm cả phong trào nữ quyền, các tôn giáo tiên tri mới, mốt ăn uống, và những cộng đồng không tưởng – tâm trạng này vào đầu thập niên 1840 được đưa lên thành một cương lĩnh về tự lực, nâng cao đạo đức, và Vận mệnh Hiển nhiên.

Thế hệ Cộng hòa bước vào tuổi già.

Thế hệ Thỏa hiệp sang tuổi trung niên.

Thế hệ Siêu việt đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Vàng son bước vào thời thơ ấu.

+ Chiến tranh Mexico và chủ nghĩa địa phương (Bước chuyển Thứ ba, 1844 – 1860) là một thời kỳ của chủ nghĩa trọng thương với “dollar-toàn năng”, cơn sốt vàng ở miền Tây, tự sùng bái kiểu [Walt] Whitman, và những khẩu hiệu ủng hộ người bản địa chống lại người Mexico và Ireland. Dưới thời giới lãnh đạo của giới lãnh đạo luôn lưng chừng đợi thời cơ, nỗi tức giận gia tăng dẫn đến những cuộc vận động lớn về đạo đức đầy cạnh tranh. Vào cuối thập niên 1850 – từ Kansas đến Harpes Ferry, từ Dred Scott đến Đường tàu điện ngầm – những cách nhìn về tương lai của quốc gia đã chia cắt thành hai lòng trung thành cục bộ không thể hòa giải được.

Thế hệ Thỏa hiệp bước vào tuổi già.

Thế hệ Siêu việt sang tuổi trung niên.

Thế hệ Vàng son đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Tiến bộ bước vào thời thơ ấu.

+ Nội chiến (Bước chuyển Thứ tư, 1860 – 1865) bắt đầu với một cuộc bầu cử tổng thống mà nhiều người miền Nam hiểu đó là mộ tlời đề nghị ly khai. Cuộc tấn công pháo đài Sumter gây ra xung đột bạo lực mạnh mẽ nhất chưa từng có trên mảnh đất Tân Thế giới. Chiến tranh lên tới đỉnh điểm với Tuyên ngôn Giải phóng nô lệ và Trận chiến Gettysburg (năm 1863). Hia năm sau, phe Liên minh bị đánh bại trong cuộc chiến đẫm máu và Lincoln bị ám sát – một kế thúc tàn nhẫn với cuộc vận động lớn được nhiều người từng hy vọng sẽ “dẫm nát vụ nho nơi những trái nho của sự phẫn nộ được cất giữ”.

Thế hệ Siêu việt đầu tiên bước vào tuổi già.

Thế hệ Vàng son đầu tiên sang tuổi trung niên.

Thế hệ Cấp tiến đầu tiên đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Sứ mệnh đầu tiên bước vào thời thơ ấu.

Các thế hệ

+ Thế hệ Siêu việt (Tiên tri, sinh trong khoảng 1792-1821), những hậu duệ đầy tự hào của một quốc gia mới an toàn, là những trẻ em Mỹ đầu tiên được mô tả (và được đặt tên khi sinh ra) như những cá nhân. Khi lớn lên, họ trở thành những nhà truyền giáo, nhà cải cách, và sinh viên nổi loạn, họ đã tạo ra một sự bùng nổ tinh thần trên toàn quốc. Là những thanh niên tham gia các cuộc vận động lớn, tầm nhìn bên trong đa dạng của họ đã làm sự chia cắt khu vực thêm trầm trọng. Bước vào tuổi trung niên, những người theo chủ nghĩa bãi nô đầy kinh nghiệm và những người miền Nam thúc giục thỏa hiệp nên đã dẫn đất nước lâm vào Nội chiến, những tuyên bố đạo đức của giới giáo sĩ già đã châm ngòi cho sự sốt sắng nơi họ. Người chiến thắng đạt được sự bãi nô nhưng lại bị cô lập bởi sự áp đặt một lệnh trừng phạt hòa bình như người cấp tiến cũ mong muốn. Khi về già, phe nữ quyền và các nhà thơ (nhiều người để râu dài) của thế hệ này đã trở thành những người giải thích kiên cường cho sự thật và công lý. (Người Mỹ: Abraham Lincoln, Jefferson Davis, Ralph Waldo Emerson, Susan B. Anthony, Nat Turner, William Llyod Garrison; Người nước ngoài: Nữ hoàng Victoria, Karl Marx).

+ Thế hệ Vàng son (Du cư, sinh trong khoảng 1822 – 1842) sống một tuổi thơ khó khăn bên cạnh những cha mẹ bị phân tâm trong các biến động tinh thần. Họ đến tuổi trưởng thành trong bối cảnh nổi giận quốc gia tăng cao, nhập cư ồ ạt, chủ nghĩa trọng thương, nền chính trị bất khả tri, và tỉ lệ vào đại học giảm sút. Khi ở tuổi thanh niên, nhiều người theo đuổi vận may ở các thị trấn phồn vinh vùng biên giới hoặc trở thành những “nhà tư bản ăn cướp” non trẻ. Những Lincoln gào hét và những Johnny nổi loạn háo hức lao vào Nội chiến khiến họ bị tàn sát, đặc biệt là phê Liên minh. Rút ra bài học ghét cay ghét đắng sự quá khích về đạo đức, những vị tống thống và nhà tư bản côn gnghiệp tuổi trung niên của thời kỳ này đã đưa cổ phiếu của mình vào kinh tế học kiểu Darwin, nền chính trị Boss Tweed, kiểu cách Victoria, và Luật Cạnh tranh của Carnegie. Khi về già, họ hạ cánh trên “đống phế liệu công nghiệp” của một nền kinh tế đô thị hóa vốn khắc nghiệt với hầu hết người già. (Người Mỹ: Ulysses Grant, Mark Twain, John D. Rockerfeller, Louisa May Alcott, William James, Sitting Bull; Người nước ngoài: Lewis Carroll, Maximilian).

Seaculum Nội chiến không có nguyên mẫu Anh hùng.

+ Thế hệ Cấp tiến (Nghệ sĩ, sinh trong khoảng 1843 – 1859) trải qua thời thơ ấu đầy biến động vì chủ nghĩa địa phương và chiến tranh. Vô cùng kính nể những cựu chiến binh lớn tuổi từng trải qua cuộc chiến đẫm máu, họ trưởng thành thận trọng, theo đuổi sự tinh tế và chuyên môn hơn là quyền lực. Trong cái bóng của thời kỳ Tái thiết, họ giành được danh tiếng với tư cách những giáo sư và luật sư, kỹ sư và chuyên gia, cán bộ công chức và nhà quản lý đáng kính. Ở tuổi trung niên, cam kết nhẹ nhàng của họ nhằm cải thiện xã hội bị đam mê tuổi trẻ làm lỡ bước. Họ trở thành giới thượng lưu của Mỹ, nhưng lại tham gia Đội kỵ sĩ Dữ dội chưa trưởng thành trong kỷ nguyên “chữa trị bằng lời nói” của Freud và mang tính đa cảm cuối thời Victoria. Sua khi mất hết niềm tin và đạt được những cải cách tiến bộ về thủ tục, các trưởng lão của thế hệ này tiếp tục thúc giục sự khoan dung đối với thế hệ sau ít chịu hòa giải. (Người Mỹ: Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Henry James, Booker T. Washington, Katherine Lee Bates, Clarence Darrow; Người nước ngoài: Oscar Wilde, Sigmund Freud).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XVI


Các bước chuyển

+ Thời đại Đế chế Augustus (Bước chuyển Thứ nhất, 1704 – 1727) đã chứng kiến sự đua nở mạnh mẽ đầu tiên của nền văn minh tỉnh lẻ – với thương mại bùng nổ, tiêu chuẩn sống tăng, các trung tâm đô thị (miền Bắc) được công nhận, và (miền Nam) nhập khẩu rất nhiều nô lệ châu Phi. Ngợi ca kỷ cương xã hội, người Mỹ rất tự hào về sức mạnh ngày càng lớn của Đế chế Anh. Về mặt xã hội, đây là đỉnh cao giả tạo trong thái độ lịch sự của thuộc địa; về mặt văn hóa, đây là thời đại của bằng cấp, sự nhanh trí, và chủ nghĩa duy lý của Hội Hoàng gia.

Thế hệ Kỵ sĩ bước vào tuổi già.

Thế hệ Huy hoàng sang tuổi trung niên.

Thế hệ Khai sáng đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Thức tỉnh bước vào thời thơ ấu.

+ Đại thức tỉnh (Bước chuyển Thứ hai, 1727 – 1746) bắt đầu như một sự hồi sinh tinh thần ở Thung lũng Connecticut và đạt đỉnh điểm cuồng loạn ở các thuộc địa miền Bắc (năm 1741) với những lời thuyết giáo của George Whitefield và những tiểu luận tôn giáo của Jonathan Edwards. Lòng nhiệt tình chia rẽ các thị trấn và hội đồng thuộc địa, phá vỡ sự tồn tại của quan niệm cũ, và đẩy tín đồ trẻ vào cuộc đọ sức về đức tin với những công trình mà người lớn tuổi đang bảo vệ. Sau khi làm bùng nổ các quy ước lịch thiệp và gia tăng các rào cản xã hội ở Cựu Thế giới, lòng nhiệt tình giảm dần trong Chiến tranh của Vua George.

Thế hệ Huy hoàng bước vào tuổi già.

Thế hệ Khai sáng sang tuổi trung niên.

Thế hệ Thức tỉnh đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Tự do bước vào thời thơ ấu.

+ Những cuộc Chiến tranh Pháp và người Da đỏ (Bước chuyển Thứ ba, 1746 – 1773) là một kỷ nguyên biến động về kinh tế và địa lý chưa từng thấy. Bị cuốn vào một cuộc chiến cuối cùng chống lại New France vào thập niên 1750, các lực lượng thực dân hầu như không ăn mừng sự toàn thắng của Anh (vào năm 1760) trước khi nối lại những tranh luận ầm ĩ về cách cứu vãn đạo đức xã hội khỏi các khoản nợ gia tăng, chủ nghĩa hoài nghi, và tính phóng đãng. Với sự lãnh đạo thuộc địa ngày càng sa sút, mọi người nhanh chóng lo lắng trước dẫn chứng về sự đồi bại của Nghị viện Anh và Đế chế.

Thế hệ Khai sáng bước vào tuổi già.

Thế hệ Thức tỉnh sang tuổi trung niên.

Thế hệ Tự do đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Cộng hòa bước vào thời thơ ấu.

+ Cách mạng Mỹ (Bước chuyển Thứ tư, 1773 – 1794) bắt đầu khi phản ứng của Nghị viện đối với Tiệc trà Boston đã châm mồi lửa cho sự kích động ở thuộc địa, trực tiếp dẫn đến việc thành lập Nghị viện Lục địa thứ nhất, trận chiến Concord, và Tuyên ngôn Độc lập. Chiến tranh lên đến đỉnh điểm với chiến thắng của phe thuộc địa ở Yorktown (năm 1781). Bảy năm sau, các bang mới đã phê chuẩn Hiến pháp quốc gia. Tâm trạng khủng hoảng dịu đi khi Tổng thống Washington vượt qua phái Jacobin, đánh bại phiến quân Whisky, và đạt được mộ thiệp ước cuối cùng với Anh.

Thế hệ Thức tỉnh bước vào tuổi già.

Thế hệ Tự do sang tuổi trung niên.

Thế hệ Cộng hòa đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Thỏa hiệp bước vào thời thơ ấu.

Các thế hệ

+ Thế hệ Thức tỉnh (Tiên tri, sinh trong khoảng 1701 – 1723) là thế hệ thuộc địa đầu tiên chủ yếu bao gồm con cái của những người sinh ra trên đất Mỹ và là thế hệ đầu tiên lớn lên được hưởng hòa bình thịnh vượng. Đến tuổi trưởng thành, họ công kích tính tự mãn đạo đức của người lớn tuổi trong một cơn chấn động tinh thần. Đến thập niên 1750, sau khi phá vỡ trật tự xã hội thời cha mẹ mình và khiến các thuộc địa không thể quản lý nổi, họ đẩy các thuộc địa vào tâm trạng bi quan – nhưng cũng hướng tới đổi mới xã hội. Họ đã trở thành thế hệ nổi tiếng nhất trong thế kỷ 17 của Mỹ, với những nhà giáo dục, nhà triết học, giáo sĩ, và người theo chủ nghĩa bãi nô. Khi về già, họ đóng góp cho Cách mạng cảm giác đáng sợ về những vấn đề đạo đưc cấp bách, đàn áp giới tăng lữ và giới cai trị thuộc địa cho đến khi tuyên bố độc lập. (Người Mỹ: Jonathan Edwards, Benjamin Franklin, Sam Adams, Eliza Pinckney, John Woolman, Crispus Attucks; Người nước ngoài: Jean Jacques Rousseau, Hoàng hậu Maria Theresa).

+ Thế hệ Tự do (Du cư, sinh trong khoảng 1724 – 1741) đấu tranh cho sự thoải mái của cha mẹ trong thời đại Hogarth bỏ bê trẻ em. Đến tuổi trưởng thành giữa lúc phá sản kinh tế, áp lực đất đai, và gia tăng nhập cư, họ đã chặn đứng tội phạm và sự rối loạn. Thời thanh niên, họ vụng về tham gia Green Mountain, Paxton, và Liberty Boys, trở thành những người lính bộ binh bị lãng quên và cướp biển táo bạo trong các cuộc Chiến tranh Pháp và người Da đỏ. Tuyên bố “Không được đàn áp tôi” và “Tự do hay là chết”, họ bước vào tuổi trung niên với những người yêu nước dũng cảm nhất (gồm hầu hết những người ký tên trong Tuyên ngôn Độc lập) cũng như những kẻ phản bội Cách mạng tồi tệ nhất. Khi về già, họ lãnh đạo với sự thận trọng, nghi ngờ các công cuộc vĩ đại, trong khi những người chống thuyết Liên bang trong số họ lại hạn chế năng lượng được quốc gia hóa của người trẻ. (Người Mỹ: George Washington, John Adams, Francis Marion, Daniel Boone, Ethan Allen, Patrick Henry; Người nước ngoài: Vua George III, Catherine Đại đế).

+ Thế hệ Cộng hòa (Anh hùng, sinh trong khoảng 1742 – 1766) lớn lên như những đứa con cưng được người lớn che chở trong một thời đại tội phạm và mất trật tự xã hội gia tăng. Đến tuổi trưởng thành, họ được đánh giá cao về sự lạc quan thế tục và tinh thần hợp tác. Thời thanh niên, họ đạt được vinh quang với tư cách người lính, sự lỗi lạc với tư cách nhà khoa học, kỷ cương với tư cách nhà hoạch định xã hội, và thành công hoành tráng với tư cách người quản lý nhà nước. Được người lớn tuổi tin tưởng và nhận thức được vai trò lịch sử của mình, họ tham gia chính trị khi còn trẻ. Họ chi phối các chiến dịch về phê chuẩn Hiến pháp và chiếm mọi ghế trong chính phủ mới. Ở tuổi trung niên, họ xây dựng hệ thống kênh rạch và những vùng lãnh thổ có được, trong khi những nhà lãnh đạo của họ thuộc phe Liên bang phục tùng kỷ luật và phe Cộng hòa duy lý biến Mỹ thành một “mảnh đất tự do”. Khi về già, họ nổi giận với thế hệ thanh niên nhiệt huyết nhất quyết phủ nhận hầu hết những gì họ từng gây dựng. (Người Mỹ: Thomas Jefferson, James Madison, John Paul Jones, Abigail Adams, Junta Kinte, Robert Fulton; Người nước ngoài: Maximilien Robespierre, Wolfgang Amadeus Mozart).

+ Thế hệ thỏa hiệp (Nghệ sĩ, sinh trong khoảng 1767 – 1791) lớn lên (nhớ lại Henry Clay) “trong cái nôi của cách mạng” khi họ chứng kiến người lớn dũng cảm đấu tranh và chiến thắng. Đến tuổi trưởng thành và luôn phục tùng, họ mang đến một sự uyên bác, tinh thông, và sự nhạy cảm lãng mạn mới mẻ cho Thời đại Tiến bộ của các trưởng lão anh hùng. Họ trở thành những thanh niên mà sử gia Matthew Crenson gọi là “cha đẻ hành chính” và tham gia Chiến tranh giành Độc lập lần thứ hai mà vinh quang của nó không bao giờ có thể sánh với cuộc chiến lần thứ nhất. Ở tuổi trung niên, họ cố vấn cho những phong trào dân túy, phiền muộn về việc xóa sổ chế độ nô lệ và Người Da đỏ, chủ trì những Thỏa hiệp Lớn trong đó phản ánh sự lưỡng lự của họ. Khi về già, họ lo rằng sứ mệnh “hậu anh hùng” của mình đã thất bại, và rằng Mỹ sẽ không thể tồn tại lâu hơn họ. (Người Mỹ: Andrew Jackson, Henry Clay, Daniel Webster, Washington Irving, Dolley Madison, Tecumseh; Người nước ngoài: Napoleon Bonaparte, Ludwig van Beethoven).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XV


Các bước chuyển

+ Nước Anh Vui vẻ (Bước chuyển Thứ nhất, 1594 – 1621) là một thời kỳ lạc quan và thịnh vượng, đầy những ước mơ đế chế, nhưng đã tôi rèn nhờ sự cảnh giá của kẻ thù ngoại bang. Đối với nghệ thuật, đây là thời kỳ Phục hưng đúng kiểu Anh, và đối với văn học, đây là kỷ nguyên huy hoàng của Shakespeare. Sau khi kế vị Elizabeth I năm 1601, James I khuyến khích học tập, thám hiểm, và thương mại. Những mối quan hệ ôn hòa tốt đẹp của ông với Hạ viện bắt đầu xấu đi sau khi ông cai trị được gần 20 năm.

Thế hệ Trả đũa bước vào tuổi già.

Thế hệ Elizabeth sang tuổi trung niên.

Thế hệ Nghệ sĩ đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Thanh giáo búcơ vào thời thơ ấu.

+ Thức tỉnh Thanh giáo (Bước chuyển Thứ hai, 1621 – 1649) bắt đầu với bản Kháng nghị Vĩ đại của Nghị viện. Khi con trai của James I lên ngôi, yêu cầu cải cách trở nên quyết liệt và ngày càng lan rộng. Tìm kiếm một cuộc sống lưu vong do tôn giáo, John Winthrop dẫn đầu những tín đồ chân chính còn sót lại tới Mỹ. Ở Anh, sự nhiệt tình của Thế hệ Thanh giáo này đã dẫn đến Nghị viện [kéo] Dài (năm 1640), nội chiến, và vụ hành quyết Charles I (năm 1649). Tại các thuộc địa mới đầy hoang vu, sự nhiệt tình giảm dần theo thực tế, tạo ra những khu định cư biệt lập đi tìm kiếm một đạo đức chính thống khả thi.

Thế hệ Elizabeth bước vào tuổi già.

Thế hệ Nghị sĩ sang tuổi trung niên.

Thế hệ Thanh giáo đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Kỵ sĩ bước vào thời thơ ấu.

+ Phản ứng và Khôi phục (Bước chuyển Thứ ba, 1649 – 1675) là một kỷ nguyên của sự trôi dạt và tranh cãi gay gắt về lý tưởng ở những người nhập cư Tân Thế giới đầu tiên. Mất phương hướng vì những sự kiện chuyển dịch quá nhanh (Chế độ Bảo hộ của Cromwell trong thập niên 1650, Khôi phục gia tộc Stuart vào năm 1660, chiến tranh với Hà Lan khiến vùng đất hiện là New York đã bị chiếm vào năm 1664), mỗi thuộc địa tự lo liệu cho mình và cắt đứt quan hệ với Anh. Thời đại này kết thúc bằng việc giảm bớt quyền tự trị thuộc địa và gia tăng những nỗi lo lắng về tương lai.

Thế hệ Nghị sĩ bước vào tuổi già.

Thế hệ Thanh giáo sang tuổi trung niên.

Thế hệ Kỵ sĩ đến tuổi thành niên.

Thế hệ Huy hoàng bước vào thời thơ ấu.

+ Cách mạng và Vinh quang ở thuộc đại (Bước chuyển Thứ tư, 1675 – 1704) bắt đầu với biến động xã hội và Chiến tranh Da đỏ đầy thảm họa, theo sau là nỗ lực của Nghị viện tái khẳng định quyền kiểm soát trực tiếp của hoàng gia ở các thuộc địa. Sự phản kháng kéo dài lên đến đỉnh điểm vào năm 1689 với những cuộc nổi dậy thuộc địa mà đã được châm ngòi bởi tin tức về Cách mạng Vinh quang ở Anh nhân danh William xứ Orange. Một thập niên tiếp theo của cuộc chiến chống lại New France thuộc Canada đã kết thúc với chiến thắng vẻ vang toàn cầu của Anh, của các thiết chế hùng mạnh ở thuộc địa tự trị và một kỷ nguyên hòa bình mới với các dân tộc bản địa.

Thế hệ Thanh giáo bước vào tuổi già.

Thế hệ Kỵ sĩ sang tuổi trung niên.

Thế hệ Huy hoàng đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Khai sáng bước vào thời thơ ấu.

Các thế hệ

+ Thế hệ Thanh giáo (Tiên tri, sinh trong khoảng 1588 – 1617) là những đứa trẻ tắm mình trong hòa bình thời hậu Armada. Mệt mỏi với những sang chấn tinh thần, nhiều người đến tuổi trưởng thành sốt sắng vạch trần sự trống rỗng tinh thần trong những thành tựu của thế hệ trước đó thời Jacobin. Trong khi một số người sau đó lãnh đạo Anh vượt qua nội chiến mà đỉnh điểm là vụ chặt đầu Vua Charles I, thì những người khác đã đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa để dẫn đầu cuộc Đại di cư tới Mỹ. Thanh niên Thanh giáo thành lập các thị trấn lấy nhà thờ làm trung tâm, từ Long Island đến Maine. Ở tuổi trung niên, lo sợ ảnh hưởng xấu của Cựu Thế giới đến lũ trẻ chưa cải đạo của mình, họ đã chuyển từ việc dựa trên tình cảm sang dựa trên pháp luật. Uy quyền đạo đức của họ vẫn không bị đe dọa khi tuổi tác đã cao, vì họ kháng cự đến cùng ở tuổi già khi tham gia các cuộc Chiến tranh Da đỏ và Cách mạng Vinh quang (Thuộc địa: Anne Hutchinson, John Winthrop, Simon Bradstreet, Roger Williams, John Havard, William Berkeley; Nước ngoài: Oliver Cromewll, René Descartes).

+ Thế hệ Kỵ sĩ (Du cư, sinh trong khoảng 1618 – 1647) lớn lên giữa một thời đại biến động tôn giáo và tan vỡ gia đình. Tại New England, họ là hậu duệ bị cô lập của những người cuồng tín; ở các thuộc địa Chesapeake, họ là thanh thiếu niên người Anh học nghề vì cha mẹ đã chết hoặc nghèo đói nên đã ký thác họ cho các chuyến tàu mang đầy bệnh tật hướng về những cánh đồng thuốc lá. Nổi tiếng bạo lực và thất học, họ trưởng thành cùng những rủi ro lớn – nhiều người chết trẻ, số còn lại trở thành thương nhân, thợ đánh bẫy, lính đánh thuê, phiến quân, và cướp biển lừng danh nhất thế kỷ. Ở tuổi trung niên, họ đấu tranh dũng cảm chống lại những mối đe dọa đến cộng đồng của mình từ những bạo chúa Cựu Thế giới và các dân tộc bản địa Tân Thế giới. Khi trở thành những người lớn tuổi bị chính trị làm hư hỏng, họ ít khi phản đối mấy mối thù truyền kiếp (chẳng hạn như phiên tòa phù thủy Salem điên cuồng) mà chủ yếu nhắm vào những người cùng thời với họ. (Thuộc địa: Increase Mather, William Stoughton, Benjamin Church, Metaconmet, William Kidd, Nathaniel Bacon; Nước ngoài: Vua Louis XIV, John Locke).

+ Thế hệ Huy hoàng (Anh hùng, sinh trong khoảng 1648 – 1673) có một thời thơ ấu được bảo vệ với trường học được trợ thuế và pháp luật mới ngăn cản “nạn bắt cóc” những đầy tớ trẻ. Sau khi chứng tỏ sự dũng mãnh của mình trong những cuộc Chiến tranh Da đỏ và chiến thắng trong Cách mạng Vinh quang, họ đã được công nghận tư cách cử tri ở độ tuổi còn rất trẻ. Ở độ tuổi thanh niên, họ tự hào với ngày càng nhiều thành tựu chính trị, thương mại, khoa học của Anh, xem xúc cảm và nghèo đó của cha mẹ họ là nỗi xấu hổ cần vượt qua. Ở tuổi trung niên, họ tạo nên bảo hiểm, tiền giấy, những công trình công cộng, và (ở miền Nam) thành lập một chính thể đầu sỏ chiếm hữu nô lệ đầy vững chắc. Là người lớn tuổi từng trải, họ nhận khoản lương hưu đầu tiên vì đã phục vụ trong chiến tranh và đất phong của các thuộc địa – cho dù đã từng phạm lỗi thời tuổi trẻ nhiệt huyết. (Thuộc địa: Cotton Mather, John Wise, William Randolph, Robert “Vua” Carter, Hannah Dustin, Peter Schuyler; Nước ngoài: William xứ Orange, Sa hoàng Peter Đại đế).

+ Thế hệ Khai sáng (Nghệ sĩ, sinh trong khoảng 1674 – 1700) lớn lên như những đứa trẻ được che chở khi gia đình rất gắn kết, không khuyến khích tuổi trẻ mạo hiểm, nền giáo dục tốt và hôn nhân bền vững được đánh giá cao. Đến tuổi trưởng thành, giới tinh hoa mới nổi này nhàn nhã trong sự thịnh vượng của các thị trấn và đồn điền phong cách Williamsburg thượng lưu. Thời thanh niên, thế hệ thừa kế này cung cấp lực lượng nòng cốt những chuyên gia được công nhận rộng rãi, chính khách, và nhà quản lý đồn điền đầu tiên của các thuộc địa. Ở tuổi trung niên, phong cách lãnh đạo Walpole của họ không ưu ái giới trẻ, những người vốn có tinh thần nhiệt huyết khiến họ vừa hoan nghênh vừa lo ngại. Nhiều người lớn tuổi sống để chứng kiến (trong sự cuồng nộ với Đạo luật Tem) sự thoái thác nghi lễ uống trà và sự phức tạp trong phong cách trang trí cầu kỳ ở châu Âu vốn được dân tỉnh lẻ ngưỡng mộ. (Thuộc địa: William Shirley, John Peter Zenger, Alexander Spotswood, Samuel Johnson, Willam Byrd II, Elisha Cooke Jr.; Nước ngoài: George Frideric Handel, Voltaire).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XIV


Các bước chuyển

+ Phục hưng Tudor (Bước chuyển Thứ nhất, 1487 – 1517) là thời kỳ củng cố chính trị và xã hội. Để được nhân dân tung hô, Vua Henry VII đã nghiền nát các thách thức với vương triều mới của mình, củng cố quyền lực và mệnh lệnh hoàng gia. Trên nền tảng này của chính quyền trung ương, tỉ lệ sinh gia tăng, thương mại tăng trưởng, xây dựng bùng nổ. Cuộc sống thế tục mới mang tính xa hoa được phản ánh rõ nhất trong các cung điện của Hồng y Wolsey. Thời đại này khép lại trong một tâm trạng cằn cỗi về văn hóa.

Thế hệ Hiệp sĩ sang tuổi trung niên.

Thế hệ Nhân văn đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Cải cách bước vào thời thơ ấu.

+ Cải cách Tin Lành (Bước chuyển Thứ Hai, 1517 – 1542) bắt đầu ở Đức với sự phản kháng nổi tiếng của Martin Luther và nhanh chóng lan tới Anh. Lòng nhiệt tình lên đến đỉnh điểm (vào giữa thập niên 1530) với việc Vua Henry VIII tuyệt giao với Giáo hoàng, Kinh Thánh của William Tyndale, các phong trào cải cách lan rộng, và Nghị viện tịch thu hàng loạt bất động sản của Giáo hội. Thời kỳ này kết thúc khi các nhà cải cách mệt mỏi (như Thomas Cromwell) hoặc bị hành quyết, khi những cuộc chiến tranh ở nước ngoài với Scotland và Pháp làm chuyển hướng khả năng sáng tạo của quần chúng.

Thế hệ Hiệp sĩ bước vào tuổi già.

Thế hệ Nhân văn sang tuổi trung niên.

Thế hệ Cải cách đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Trả đũa bước vào thời thơ ấu.

+ Bất khoan dung và Tử vì đạo (Bước chuyển Thứ ba, 1542 – 1569) là một kỷ nguyên xã hội tan rã, xã hội nổi loạn, và đầy những mưu đồ chính trị chết người. Qua các triều đại của Edward VI và Nữ hoàng Mary, ngai vàng xung đột dữ dội với vấn đề tôn giáo. Nền kinh tế chao đảo trong vòng tuần hoàn phát triển-phá sản, với uy tín của hoàng gia giảm sút khiến lạm phát tăng cao chưa từng có. Khi thời kỳ này kết thúc, vào đầu triều đại của Nữ hoàng Elizabeth I, một quốc gia vỡ một lo lắng nhìn về tương lai.

Thế hệ Nhân văn đến tuổi già.

Thế hệ Cải cách sang tuổi trung niên.

Thế hệ Trả đũa đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Elizabeth bước vào thời thơ ấu.

+ Khủng hoảng Armada (Bước chuyển Thứ tư, 1569 – 1594) bắt đầu khi vị công tước quyền lực xứ Norfolk có liên quan đến một âm mưu của Tây Ban Nha chống lại vua Anh, một phát hiện mới sắc bén của giới Tin Lành Anh chống lại mối đe dọa toàn cầu xuất phát từ gia tộc Hapsburg Công giáo. Đỉnh cao của những cuộc chiến tranh đại diện và truy lùng bằng tàu là chiến thắng kỳ diệu của Anh trong cuộc chiến xâm lược của Hạm đội Tây Ban Nha (năm 1588). Tâm trạng khẩn cấp nới lỏng sau khi Hà Lan kháng chiến thành công và chấm dứt sự kiểm soát của Tây Ba Nha ở Pháp.

Thế hệ Cải cách đến tuổi già.

Thế hệ Trả đũa sang tuổi trung niên.

Thế hệ Elizabeth sang tuổi thanh niên.

Thế hệ Nghị sĩ bước vào thời thơ ấu.

Các thế hệ

+ Thế hệ Cải cách (Tiên trị, sinh trong khoảng 1483 – 1511) bắt đầu cuộc đời bằng những lợi thế của trật tự và sung túc. Họ nổi loạn thời trẻ, đầu tiên là tại các trường học (trong thập niên 1520) rồi sau đó là một vị vua trẻ tuổi ích kỷ và Nghị viện (trong thập niên 1530) tham gia vào một biến động tôn giáo. Khi thời kỳ đam mê nguội bớt, Giáo hội Công giáo bị giải tán, giới tu sĩ tan rã, quần chúng được trang bị Kinh Thánh, và đức tin Anh giáo được tách khỏi Rome. Ở tuổi trung niên, sự xấc xược của họ củng cố thêm nguyên tắc khắt khe. Với nhiều hình tượng phụ nữ xuất chúng, họ trở thành những nhà đạo đức của khối thịnh vượng chung, một nhóm người theo tình yêu thần bí, những người phải từ bỏ tín ngưỡng thuộc phái Calvin (hoặc Rome), và những kẻ tử vì đạo ngoan cố bị thiêu hoặc bị treo cổ do dị giáo. Khi già đi, nhiều người sống để chứng kiến đất nước bị kéo vào cuộc Hòa giải Thanh giáo mà họ đã thực hiện khá lâu để truyền cảm hứng. (Người Anh: Vua Henry VIII, Thomas Cromwell, John Knox, Elizabeth Barton, William Tyndale, Nicholas Ridley; Người châu Âu; Martin Luther, John Calvin).

+ Thế hệ Trả đũa (Du cư, sinh trong khoảng 1512 – 1540) trải qua tuổi thơ trong bối cảnh tôn giáo hỗn loạn và quyền lực xã hội suy giảm trên diện rộng, đến tuổi trưởng thành trong một thời kỳ hậu Thức tỉnh đầy hoài nghi của nền chính trị khốc liệt và các thị trường đầy biến động. Họ nổi tiếng là những thương nhân ngang tàng, lính đánh thuê, gián điệp, và cướp biển, tiến hành trả đũa một cách ấn tượng bằng sự may mắn và sự can trường. Bước vào tuổi trung niên cùng lúc với Nữ hoàng của mình (bản thân bà là một trẻ mồ côi khôn ngoan) và cãi cọ với Đế chế Tây Ban Nha, các nhà thám hiểm liều lĩnh này biết cách làm “râu Vua Philip cháy xem” trong khi ăn cắp vàng của ông. Kêu gọi danh dự quốc gia, họ đến độ chín và trở thành những người lãnh đạo lớn tuổi khôn ngoan, từng trải của tình đoàn kết Anh, sự hi sinh của họ có thể xây dựng một kỷ nguyên mới huy hoàng. (Người Anh: Nữ hoàng Elizabeth I, Francis Drake, John Hawkins, Thomas Gresham, Nam tước xứ Burghley, Francis Walsingham; người châu Âu: Catherine de’Medici, Michel de Montaigne).

+ Thế hệ Elizabeth (Anh hùng, sinh trong khoảng 1541 – 1565) là những đứa trẻ được hưởng lợi từ sự bùng nổ hàng loạt trường học nhằm rèn luyện chúng thành hình ảnh mẫu mực hoàn hảo của thành tựu xã hội và làm việc nhóm. Đến tuổi trưởng thành cùng với những cuộc chiến lớn chống lại Tây Ban Nha, họ đi lính với lòng dũng cảm đến kinh ngạc và tác phong nhã nhặn. Tuổi trung niên của họ rơi vào thời đại Huy hoàng, họ chỉnh đốn thương mại, khám phá các vùng đất mới ở nước ngoài, xây dựng những dinh thự lớn đồ sộ, theo đuổi ngành khoa học mới, và làm thơ tôn vinh một vũ trụ có trật tự. Sử gia Anthony Esler giải thích rằng “các dự án đầy tham vọng có quy mô ngoạn mục và vĩ đại” đã khiến “những người vươn tới trước” này khác với “thế hệ tàn lụi” trước họ. Khi về già, nhiều người sống để chứng kiến một Nước Anh Vui vẻ nồng nhiệt và cởi mở bị những đứa con trai và con gái có lương tri của họ chối từ. (Người Anh: William Shakespeare, Walter Raleigh, Philip Sidney, Francis Vere, Francis Bacon, Edward Coke; người châu Âu: Miguel de Cervantes, Galileo Galilei).

+ Thế hệ Nghị viện (Nghệ sĩ, sinh trong khoảng 1566 – 1587) trải qua thời thơ ấu trong một thời đại của những mối đe dọa và chiến tranh ngoại bang. Trưởng thành cùng với bình minh của hòa bình và thịnh vượng trên đế chế, họ đạt được những thành tựu không chê vào đâu được trogn pháp luật, học thuật, tôn giáo, nghệ thuật, và phương hội thủ công. Trong các dinh thự lớn, họ làm gia tăng ảnh hưởng của giới quý tộc trí thức mới. Tại Tòa án, họ biện giải cho chính sách Byzantine của James I. Trong Nghị viện, họ khuyến khích phẩm chất lễ độ và khăng khăng theo tiền lệ, nguyên tắc xét xử công bằng, và công bố thông tin đầy đủ. Ở tuổi trung niên, đặc tính thay đổi dần của họ bị rung chuyển trước những lời kêu gọi mới đối với cải cách triệt để. Phái Arminius đưa ra lập luận phản bác; phái Nghị trường hoan nghênh nhưng lưỡng lự. Cực kỳ thiếu quyết đoán khi phát biểu và thuyết giáo, họ chứng kiến Anh rẽ sang một vòng xoáy cuồng loạn và bạo lực mà họ cảm thấy bất lực vì không thể ngăn chặn. (Người Anh: Vua James I, John Donne, William Laud, Inigo Jones, Công tước xứ Buckingham, John Selden; người châu Âu: Claudio Monteverdi, Peter Paul Rubens).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XIII


Tổng quan: Bảy chu kỳ của các thế hệ và những bước chuyển

Saeculum lả một chu kỳ theo mùa của lịch sử, gần bằng chiều dài của một đời người sống thọ, nó giải thích sự tuần hoàn của các thời kỳ Thức tỉnh và Khủng hoảng trong suốt thời hiện đại.

Saeculum của người Mỹ gốc Anh được tính từ sự suy tàn thời trung cổ hồi giữa thế kỷ 15. Đã có bảy saeculum:

+ Cuối thời trung cổ (1435 – 1487).

+ Cải cách Tin Lành (1487 – 1594).

+ Tân Thế giới (1594 – 1704).

+ Cách mạng (1704 – 1794).

+ Nội chiến (1794 – 1865).

+ Siêu cường (1865 – 1946).

+ Thiên niên kỷ (1946 – 2026?).

Mỹ hiện nay đang ở Bước chuyển Thứ ba của Saeculum Thiên niên kỷ và khai sinh ra thế hệ thứ 24 của thời kỳ hậu trung cổ.

Các bước chuyển

Mỗi bước chuyển là một tâm trạng xã hội thay đổi mỗi khi các nguyên mẫu thế hệ gia nhập một nhóm mới. Mỗi bước chuyển là khoảng chiều dài của một giai đoạn cuộc đời.

+ Bước chuyển Thứ nhất thời kỳ Lạc quan – một kỷ nguyên vui vẻ các thiết chế vững mạnh và chủ nghĩa cá nhân suy yếu, khi trật tự xã hội mới bén rễ và hệ thống giá trị cũ mục ruỗng. (Du cư bước vào tuổi già: Anh hùng sang tuổi trung niên; Nghệ sĩ đến tuổi thanh niên; và Tiên tri ở thời thơ ấu).

+ Bước chuyển Thứ hai thời kỳ Thức tỉnh – một kỷ nguyên sôi động của chuyển biến tinh thần, khi hệ thống giá trị mới làm xói mòn trật tự xã hội. (Anh hùng bước vào tuổi già, Nghệ sĩ sang tuổi trung niên, Tiên tri đến tuổi thanh niên, và Du cư ở thời thơ ấu).

+ Bước chuyển Thứ ba thời kỳ Tan rã – một kỷ nguyên xuống dốc với chủ nghĩa cá nhân lên cao và các thiết chế suy yếu, khi trật tự xã hội cũ suy tàn và hệ thống giá trị mới nảy sinh. (Nghệ sĩ bước vào tuổi gia; Tiên tri sang tuổi trung niên; Du cư đến tuổi thanh niên, và Anh hùng ở thời thơ ấu).

+ Bước chuyển Thứ tưthời kỳ Khủng hoảng – một kỷ nguyên mang tính quyết định của biến động thế tục, khi hệ giá trị mới thúc đẩy việc thay thế trật tự xã hội cũ bằng một trật tự xã hội mới. (Tiên tri bước vào tuổi già, Du cư sang tuổi trung niên, Anh hùng đến tuổi thanh niên, và Nghệ sĩ ở thời thơ ấu).

Nửa Saeculum cuối thời Trung cổ: Các bước chuyển

+ Rút quân khỏi Pháp (Bước chuyển Thứ ba, 1435 – 1459) là thời kỳ suy thoái của các triều đại và mất trật tự xã hội. Năm 1435, không lâu sau khi Joan of Arc bị hành quyết, người Anh rút khỏi Paris lần cuối. Trong thập niên 1440, họ đã bị đầy ra khỏi Pháp trên tất cả các mặt trận. Vậy là Chiến tranh Trăm năm đã kết thúc. Trong khi đó, sự cai trị kém cỏi của vua trẻ Henry VI đã làm suy yếu chính quyền trung ương ở Anh. Đến thập niên 1450, giới quý tộc coi thường pháp luật, tranh giành quyền lực, và tham gia vào những cuộc chiến cá nhân mà không bị trừng phạt.

Thế hệ Hiệp sĩ bước vào thời thơ ấu.

+ Những cuộc Chiến tranh Hoa hồng (Bước chuyển Thứ tư, 1459 – 1487) bắt đầu với một sự tan vỡ không thể thay đổi được giữa hai gia tộc Lancaster và York. Sau một cuộc nội chiến đẫm máu, những vị vua xứ York (Edward IV, Edward V, Richard III) chiếm ưu thế trong các thời đại, nổi bật với những cuộc xâm lược và nổi dậy. Tại Trận Bosworth (năm 1485), Henry Tudor đã đánh bại Richard III và tự xưng là Henry VII, sáng lập ra một vương triều mới. Hai năm sau đó, ông đã đánh bại một kẻ nổi dậy trong trận Stoke, giúp ông giành được sự tin tưởng lâu dài của thần dân.

Thế hệ Hiệp sĩ đến tuổi thanh niên.

Thế hệ Nhân văn bước vào thời thơ ấu.

Các thế hệ

Một thế hệ gồm những người có vị trí giống nhau trong lịch sử tạo cho họ một cá tính chung. Chiều dài của một thế hệ là quãng chừng chiều dài của một giai đoạn cuộc đời. Các thế hệ biểu thị theo bốn nguyên mẫu, luôn theo cùng một thứ tự, vị trí theo các giai đoạn cuộc đời của bốn nguyên mẫu tạo thành một nhóm các thế hệ.

+ Nguyên mẫu Tiên tri được sinh ra trong thời kỳ Lạc quan và đến tuổi thanh niên trong Thức tỉnh, tuổi trung niên trong Tan rã, và tuổi lão niên trong Khủng hoảng.

+ Nguyên mẫu Du cư được sinh ra trong thời kỳ Thức Tỉnh và đến tuổi thanh niên trong Tan rã, tuổi trung niên trong Khủng hoảng, và tuổi lão niên trong Lạc quan.

+ Nguyên mẫu Anh hùng được sinh ra trong thời kỳ Tan rã và đến tuổi thanh niên trong Khủng hoảng, tuổi trung niên trong Lạc quan và tuổi lão niên trong Thức tỉnh.

+ Nguyên mẫu Nghệ sĩ được sinh ra trong thời kỳ Khủng hoảng và đến tuổi thanh niên trong Lạc quan, tuổi trung niên trong Thức tỉnh, và tuổi lão niên trong Tan rã.

Ở bước chuyển Thứ tư, nhóm các thế hệ chứa tất cả bốn nguyên mẫu sinh ra trong saeculum hiện nay. Trong ba bước chuyển đầu tiên, nhóm các thế hệ bao gồm một hoặc nhiều nguyên mẫu sinh ra trong saeculum trước đó.

Nửa Saeculum cuối thời trung cổ: Các thế hệ

+ Thế hệ Hiệp sĩ (Anh hùng, sinh ra trong khoảng 1433 – 1460) lớn lên trong thời kỳ Anh rệu rã rút quân khỏi Pháp, một thời đại bi quan và mất trật tự xã hội gia tăng. Được nuôi dưỡng trong những hy vọng của thế hệ trước đó rằng họ có thể bảo vệ vương quốc, các Hiệp sĩ đến tuổi trưởng thành cùng với một cuộc nội chiến không kết thúc cho đến khi Henry Tudor 28 tuổi thành lập triều đại mới của mình. Bước vào tuổi trung niên, họ siết chặt hàng ngũ trong một kỷ nguyên thịnh vượng mới mạnh mẽ (do đứng đầu về xuất khẩu len), kỷ cương xã hội (do các quan tòa địa phương bận rộn đứng đầu), và chính quyền trung ương hùng mạnh (do Hội đồng Cơ mật mới dẫn đầu). Bước vào tuổi già, họ tham gia nhiều lĩnh vực, in sách, và lên kế hoạch cho các hành trình đến Tân Thế giới, đảm bảo danh tiếng cho tinh thần đồng đội hào hiệp bất tử torng Morte D’Arthur, áng sử thi quý giá về thế hệ của họ. (Người Anh: Vua Edward IV, Vua Henry VII, John Cabot, William Grocyn, John de Vere; Người châu Âu: Leonardo da Vicni, Christopher Columbus).

+ Thế hệ Nhân văn (Nghệ sĩ, sinh trong khoảng 1461 – 1482) trải qua một tuổi thơ được che chở trong cuộc nội chiếm đẫm máu, nhiều người trong giới thượng lưu còn được đi học nước ngoài nên an toàn hơn. Đến tuổi trưởng thành, họ hiểu rõ sứ mệnh của mình là tô điểm cho một trật tự mới. Ở tuổi thanh niên, họ trở thành những nhà nhân văn mới – những trợ giảng người Hy Lạp, học giả quốc tế, nhà thơ trữ tình, , giáo sĩ cấp cao được đào tạo về pháp luật, thương gia tri thức, và điền chủ nhỏ. Tuổi trung niên của họ vấp phải Thời kỳ Cải cách, và họ điều chỉnh theo đầy lúng túng. Một số ẩn mình trong cung điện xa hoa sang trọng của Wolsey và chẳng thèm lưu tâm. Một số khác viết lan man. Một số ít (như vở kịch nổi tiếng Man for All Seasons [Tạm dịch: Người của Bốn Mùa]) châm biếm sắc sảo thói đạo đức giả đang thịnh hành, ủng hộ trật tự cũ, và cuối cùng trả giá. Khi về già, họ giật mình trước một chủ nghĩa cấp tiến mới tàn nhẫn, lấn át cả những nét tinh tế hòa nhã của riêng họ. (Người Anh: Thomas More, Thomas Linacre, John Colet, Hồng y Wolsey, Stephen Gardiner, Người châu Âu: Michelangelo, Copernicus).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XII


Lãnh đạo tối cao là những người lớn tuổi vẫn luôn được mọi người gắn kết với sự tin tưởng của xã hội và các thể chế lớn, và là những người gần đây đã từ chức trong mối quan ngại rằng nếu họ tham gia điều hành đất nước thì sẽ chẳng ai có thể thay thế được quyền lực của họ. Những người cùng thời với Thế hệ Vĩ đại nhất của Mỹ, được gọi là Thế hệ Vạn lý Trường chinh (Đặng Tiểu Bình), Thế hệ Oanh tạc (Margaret Thatcher), Thế hệ Kháng chiến (Francois Mitterrand, Giulio Andreotti), và Thế hệ Chiến tranh Vệ quốc (Leonid Brezhnev, Yuri Andropov). Đảm nhiệm vị trí lãnh đạo là một Thế hệ Đột kích Trên không trưởng thành từ những đứa trẻ thời chiến (giống như Boris Yeltsin, Helmut Kohl, Jacques Chirac, Jean Chrétien, và Romano Prodi), những chuyên gia hậu hiện đại tung hô “sự cởi mở và tính minh bạch”, ngoại giao, truyền thông, và khả năng lãnh đạo châu Âu trong khi tất cả các liên minh cũ lại vòng vo và chia sẻ.

Tiếp sau họ là thế hệ toàn cầu đến tuổi trưởng thành trong bối cảnh những vụ bạo loạn của giới trẻ, chiếm đóng Praha, khủng bố ở châu Âu, và Cách mạng Văn hóa Trung Hoa. Tại châu Âu, đây là Thế hệ 5x của năm 1968 (Alexander Lebed, Lech Walesa, Gerry Adams, Thái tử Charles, Tony Blair, và José Maria Aznar). Tại Israel, đây là Thế hệ hậu Exodus của Binyamin Netanyahu. Ám ảnh với các giá trị, chống lại văn hóa pop phương Tây, và kết bè phái giận dữ, những người nước ngoài cùng thời với Thế hệ Bùng nổ lên nắm quyền chậm hơn. Những người trên toàn cầu cùng thời với Thế hệ Thứ 13, “thế hệ 9x” trẻ tuổi ngày nay (ở Pháp là Thế hệ Xấu xí, kiểu như “ai mà quan tâm”) được mô tả trên phương tiện truyền thông như những người thích đùa và nay đây mai đó, những nhà bảo vệ môi trường và những doanh nhân, thực dụng và định hướng thị trường, những nhà toàn cầu hóa về kinh tế nhưng bài ngoại về xã hội, và quan tâm đến việc kiếm tiền hơn là chính trị.

Từ tình bạn đặc biệt của Reagan với Thatcher tới những sinh viên chưa tốt nghiệp đang lướt Web từ Seattle đến Minsk, mối quan hệ xuyên quốc gia ở các thế hệ trên địa cầu ngày nay có thể đảm bảo rằng người Mỹ trong độ tuổi lãnh đạo sẽ tiếp tục gặp phải những người nước ngoài có tính cách tương tự trong vòng ít nhất là hai hoặc ba thập niên tới. Điều này có thể làm nổi bật những nhịp điệu của saeculum và củng cố quãng thời gian bốn nhịp của nó, có lẽ với những thời kỳ Khủng hoảng càng bão tố thì những thời kỳ Lạc quan sau đó càng phấn khởi hơn. Một lần nữa, có thể saeculum chẳng làm gì để phân loại. Không ai biết được. Saeculum không phải là một động lực xã hội hoàn toàn ổn định, vì một lý do rất đơn giản: Sự ổn định chung nằm ngoài tầm với của bất kỳ hệ thống nào của con người.

Sau tất cả, saeculum không thể xác định chất lượng tốt hay xấu của những kết cục lịch sử. Những kết cục này đều mở đầu bằng nghi ngờ, tất cả tùy thuộc vào các hành vi tốt và xấu của các thế hệ (và của những bậc phụ huynh và những nhà lãnh đạo mà các thế hệ sinh ra). Vì những kết cục này đểu mở đầu bằng nghi ngờ, nên đó cũng là trạng thái thường xuyên của quãng thời gian saeculum và các thế hệ cấu thành của nó. Nếu chúng ta có thể tưởng tượng ra một thảm họa vô cùng kinh khủng có thể đặt dấu chấm hết cho mọi chu kỳ lịch sử, thì chúng ta cũng phải chấp nhận rằng các bi kịch nhẹ nhàng hơn có thể làm cong hoặc cắt ngắn một chu kỳ. Rất có thể mỗi xã hội hiện đại đều đã trải qua một hoặc nhiều chu kỳ bất thường này.

Trong lịch sử người Mỹ gốc Anh, chỉ có Nội chiến là sự bất thường đáng chú ý. Saeculum của nó có các Bước chuyển Thứ nhất và Thứ hai bình thường, nhưng các Bước chuyển Thứ ba và Thứ tư lại được rút ngắn xuống chỉ còn 22 năm (1844 – 1865), tương điều chiều dành thông thường của một bước chuyển. Chỉ có 32 năm tính từ đỉnh điểm của thời kỳ Thức tỉnh Tiên nghiệm tới đỉnh điểm của Nội chiến. Saeculum này cũng không sinh ra thế hệ nào theo kiểu Anh hùng, khiến đây là lần duy nhất trong năm thế kỷ chu kỳ bốn nguyên mẫu đã bị phá vỡ.

Thoạt nhìn, thời kỳ Khủng hoảng Nội chiến dường như đã đi vào lịch trình. Năm đỉnh điểm (1863) đã đến sau đỉnh điểm của thời kỳ Khủng hoảng trước đó là 80 năm và trước lần đỉnh điểm kế tiếp là 81 năm. Nhưng trước Nội chiến, các saeculum kéo dài hơn. Ba saeculum trước đã kéo dài gần một thế kỷ (lần lượt là 103, 101 và 94 năm). Không có vẻ gì là các thế hệ đã đột ngột giảm độ dài một thế hệ xuống như thời hiện đại. Nếu như những nhịp điệu được rút ngắn với một tốc độ chậm hơn, thì đáng lẽ saeculum này phải kéo dài tới 90 hoặc 95 năm. Do đó, thời kỳ khủng hoảng của Saeculum Nội chiến có thể đạt đỉnh điểm và kết thúc vào khoảng 10 hoặc 15 năm trước thời điểm mà nhịp điệu lịch sử đưa ra.

Tại sao lại như vậy? Ba thế hệ trưởng thành đang sống vào thời điểm đó (Thế hệ Thỏa hiệp lớn tuổi, Thế hệ Siêu việt trung niên, và Thế hệ Vàng son trẻ tuổi) đã để cho bản năng tồi tệ nhất của họ chiếm ưu thế. Sau những nỗ lực không thành của Henry Clay, Daniel Webster, và John Calhoun nhằm ngăn chặn chiến tranh, Thế hệ Thỏa hiệp lớn tuổi của kỷ nguyên xa hoa đã không thể vượt qua được quá trình trống rỗng và sự rối loạn về đạo đức. Thế hệ Siêu việt có tuổi chia xã hội thành hai vùng địa lý riêng biệt khép kín mà không thể cưỡng lại được việc tiến hành chiến tranh (và sau đó là hòa bình) với sự tàn nhận tột cùng. Thế hệ Vàng son trẻ tuổi chẳng bao giờ vượt qua được ham muốn tranh đấu của một kẻ ưa mạo hiểm hoặc dễ dàng từ bỏ danh dự cá nhân – cho đến khi chiến tranh tàn phá cuộc sống và triển vọng tương lai của chính họ. Ba thế hệ này tập hợp thành một nhóm rất nguy hiểm. Họ đẩy nhanh tốc độ của thời kỳ Khủng hoảng, nhanh chóng đưa nó lên cao trào, tạo ra kết quả khải huyền nhất mà các chính khách, nhà thuyết pháp, tướng lĩnh, và kỹ sư có thể cùng đạt được.

Với bất kỳ Bước chuyển Thứ tư nào trong lịch sử Mỹ, một sử gia sẽ khó mà tưởng tượng ra một đoạn kết bay bổng hơn những gì thật sự xảy ra. Đối với Nội chiến, có thể dễ dàng tưởng tượng ra một kết quả tốt hơn. Đúng, Liên minh được bảo toàn, nô lệ được giải phóng, và Cách mạng Công nghiệp nổ ra nhưng với chi phí rất lớn. Thêm một thế kỷ hận thù vùng miễn đã đẩy miền Nam vào cảnh nghèo đói và lưu vong chính trị. Tái thiết thất bại trong kỷ nguyên của lối hành hình kiểu lynching và Jim Crow, và mọi vấn đề xã hội khác (mọi thứ từ những khiếu nại của người lao động cho tới nữ quyền) đều nguội dần cho đến thời kỳ Thức tỉnh tiếp theo, và khi đó chúng phải khởi động lại gần như từ đầu. Phản ứng chính trị của những người còn sống lúc đó chỉ ra rằng nhiều người Mỹ đã thật sự quy nỗi đau bất thường của Bước chuyển Thứ tư nọ cho hành vi tại hại của một bộ phận Thế hệ Siêu việt đang già đi: Sau Nội chiến là năm 1868 với chiến thắng lớn nhất mang tính thế hệ trong lịch sử bầu cử Mỹ, khi các cử tri lại là những người lớn tuổi hâm mộ cuồng nhiệt Thế hệ Vàng son đang ở độ tuổi 40.

Sau đó, không có thế hệ kế nhiệm nào đảm đương được vai trò thông thường của Thế hệ Anh hùng trong việc xây dựng những thể chế công để hiện thực hóa tầm nhìn của Thế hệ Siêu việt. Thế hệ Cấp tiến (một thế hệ được bảo vệ, là người con ngoan ngay trước chiến tranh) là thế hệ tiếp theo trong dòng chảy và có thể đã trở thành như thế. Nhưng vì thời kỳ Khủng hoảng kéo đến quá sớm và quá dữ dội, nên thế hệ này đã phải chịu đựng nhiều nỗi đau hơn là được tiếp thêm sức mạnh. Mặc dù nhiều người trẻ của Thế hệ Cấp tiến từng là các cựu chiến binh tham chiến, nhưng họ để lại quan điểm chính trị hậu chiến trong tay của Thế hệ Vàng son khoác “chiếc áo đẫm máu”. Để khẳng định một chút lòng tin, Thế hệ Cấp tiến phát triển tính cách tốt hơn nguyên mẫu Nghệ sĩ. Lấp đầy khoảng trống nguyên mẫu, Thế hệ Vàng son chín chắn là một sự kết hợp giữa Du cư và Anh hùng. Sau khi làm chủ một thời kỳ Lạc quan với nền văn hóa khô cằn bất thường. Thế hệ Vàng son này sau đó đã bị Thức tỉnh bác bỏ, một thời kỳ mà những người lớn tuổi bị phỉ báng chưa từng thấy trong lịch sử chúng ta.

Tính bất thường của Nội chiến cho thấy sự nguy hiểm tiềm tàng ở các nhóm thế hệ, sự hung hăng mà các nguyên mẫu có thể thực hiện trong những kịch bản vòng đời của mình, và cách thức mà thời kỳ Khủng hoảng có thể kết thúc sớm trong một bi kịch không thể tưởng tượng nổi từ trước. Nó cũng khẳng định rằng lịch sử không được xác định trước, rằng những hành động của con người (và những lựa chọn chính trị của họ) về cơ bản có thể làm thay đổi tiến trình lịch sử.

Tính bất thường của Nội chiến mang tới hy vọng cũng như cảnh báo. Tiếp sau nó là những bước chuyển kiểu thông thường. Một xã hội bị chiến tranh tàn phá phải chịu đựng tổn thương rất lớn, đã phục hồi chuỗi cân bằng của những bước chuyển saeculum. Ngay cả ở đỉnh cao thời kỳ Khủng hoảng, thì quyền công dân đã gieo hạt giống mà sau này sẽ nảy mầm thành những nguồn vốn lớn: đường sắt xuyên lục địa, trang trại nông nghiệp gia đình, và cấp đất cho các trường đại học. Nó cũng đặt nền móng mới cho chủ quyền quốc gia: Trước khi Appomattox đầu hàng, Mỹ đã từng là một danh từ số nhiều; sau này mới trở thành số ít. Và lại có thêm một thời kỳ Lạc quan nữa. Những thế hệ sau chiến tranh không bao giờ từ bỏ niềm tin của họ vào tiến bộ, khắc phục thiệt hại, và đầu tư nhiều cho tương lai. Lao động chăm chỉ, lựa chọn đầu tư khôn ngoan, và mức chi tiêu tiết kiệm của họ đã hỗ trợ đáng kể cho sự phục hồi kỳ diệu của nền kinh tế Mỹ ở thế kỷ 20.

Nếu học từ tấm gương của họ, chúng ta có thể ngăn chặn một thảm họa trong Bước chuyển Thứ tư sắp tới, món nợ của chúng ta với các thế hệ của Clay, Lincoln, và Grant quả thật sẽ rất lớn.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Các chu kỳ của lịch sử – Phần XI


Lịch sử luôn tạo ra những tia sáng. Nhưng một số tia sáng lóe lên và sau đó lụi tàn, trong khi số khác lại tự tỏa sáng hơn tất cả. Lịch sử luôn tạo ra những ý tưởng tốt và xấu. Một số nhanh chóng tiêu tan, trong khi số khác lại trở thành nguồn cảm hứng tuyệt vời hoặc những tai họa khủng khiếp.

Những cuộc chiến và các bước chuyển

Bước chuyển Thứ nhấtBước chuyển Thứ haiBước chuyển Thứ baBước chuyển Thứ tư
Chiến tranh Nữ hoàng Anne Chiến tranh năm 1812 Chiến tranh Triều TiênNội chiến Anh Chiến tranh Vua Geogre Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ Chiến tranh Việt NamChiến tranh Pháp và người Da đỏ Chiến tranh Mexico Thế chiến I Chiến dịch Bão táp sa mạcCuộc chiến Hoa hồng Chiến thắng Armanda Chiến tranh Vua Philip Cách mạng Vinh quang Cách mạng Mỹ Nội chiến Mỹ Thế chiến II

Như Klingberg nhận thấy, lịch sử về các phản ứng của Mỹ trước sự khiêu khích nước ngoài đầy những sự tương phản như vậy. Ví dụ, hãy so sánh sự dính líu của Mỹ trong Thế chiến I và Thế chiến II. Cả hai cuộc chiến đều được châm ngòi bởi hành vi hiếu chiến của nước ngoài (vụ chìm tàu Lusitania, cuộc không kích Trân Châu cảng). Trong trường hợp một, Nghị viện đã đợi hai năm – và kiên nhẫn chịu đựng thêm hành động khiêu khích – trước khi tuyên chiến trong bối cảnh đối lập chính trị sâu sắc. Trong trường hợp còn lại, Nghị viện tuyên chiến vào hôm sau, chỉ với duy nhất một phiếu chống. Trong trường hợp một, chiến tranh đã góp phần làm nóng những vấn đề gây chia rẽ như Luật Cấm rượu, bạo lực lao động, và những phiên tòa xử tội nổi loạn. Trong trường hợp còn lại, đất nước đã huy động không chút xao nhãng. Cả hai cuộc chiến đều kết thúc với thắng lợi hoàn toàn. Sau Thế chiến I, những người lính trở về nhà với sự day dứt trong tâm hồn và mất mát đồng đội; sau Thế chiến II, lại cờ hoa rực rỡ. Cả hai cuộc chiến đều gia tăng ảnh hưởng của Mỹ ở nước ngoài. Trong Thế chiến I, ảnh hưởng đó đã nhanh chóng bị lãng phí; trong Thế chiến II, nó lại được củng cố trong hai thập niên tiếp theo.

Trong Bước chuyển Thứ tư, những lực lượng thế hệ có xu hướng lái các sự kiện ngoại sinh hướng tới một sự ứng phó quốc gia có dự tính. Khi Hitler và Tōjō tiến hành chiến tranh xâm lược toàn cầu, Mỹ đã sẵn sàng cho hành động mang tính quyết định. Với Thế hệ Tiên tri đang tràn sinh lực và Anh hùng đến tuổi trưởng thành, những người thiết lập trật tự nguyên mẫu chịu trách nhiệm và những người tiếp nhận trật tự nguyên mẫu ở trên chiến trường. Kết quả đạt được là sự hợp tác tối đa giữa các thế hệ. Những nhà lãnh đạo thuộc Thế hệ Tiên tri lớn tuổi không lùi bước trước cuộc đối đầu. Thật vậy, Sam Adams, John Brown, và Franklin Roosevelt đều bị buộc tội một cách đáng tin cậy là đã tiếp tay dàn dựng tình huống khẩn cấp cho mục đích tốc hành của những thanh niên kích động.

Đi qua một nửa hành trình của saeculum, không cuộc chiến nào có thể thoát khỏi tư tưởng đối lập của thời kỳ Thức tỉnh với giới trẻ nhiệt huyết. Trong Chiến tranh Việt Nam, những người tiếp nhận trật tự nguyên mẫu đã già, còn những người thiết lập trật tự nguyên mẫu vẫn trẻ. Thế hệ Tiên tri trẻ thách thức sự trống rỗng về đạo đức của những tổ chức chỉ đạo họ. Trong khi đó, Thế hệ Anh hùng nhiều tuổi đã làm mọi thứ mà mình có thể để ngăn chặn yêu cầu hy sinh – nếu cần thiết thì bằng cả sự sung túc và công nghệ không giới hạn. Kết quả là biến động tối đa giữa các thế hệ. Vào cuối thập niên 1960, cả hai thế hệ đều không thoải mái với vai trò của mình trong chiến tranh, thế hệ này gây khó chịu cho thế hệ khác bằng chính hành vi của mình.

Mỗi cuộc chiến lớn trong lịch sử người Mỹ gốc Anh đã được định hình bởi bước chuyển trên trong thời gian nó diễn ra. Xin xem bảng trên.

Những cuộc chiến trong thời kỳ Lạc quan đều là những tiếng vang của Khủng hoảng trước đó, từ Chiến tranh năm 1812 (tái khẳng định Cách mạng) cho tới Chiến tranh Triều Tiên (tái khẳng định trật tự toàn cầu hậu chiến tranh). Những cuộc chiến có xu hướng là sự tách biệt. Tính kiên nhẫn cao, sự nhiệt tình thấp.

Những cuộc chiến trong thời kỳ Thức tỉnh đều vấp phải niềm đam mê tuổi trẻ – từ những người truyền giáo say sưa đã tấn công Louisbourg năm 1745, tới các cuộc bãi khóa của isnh viên trong “Những ngày Thịnh nộ” năm 1970. Tình trạng hỗn loạn trong nước đã đưa đến những quyết định quân sự, khiến cho mỗi cuộc chiến đều gây tranh cãi trong thời gian nó diễn ra và trở thành những ấn tượng xấu sau này.

Những cuộc chiến trong thời kỳ Tan rã đều nhanh chóng thắng lợi và ngay lập tức gây tiếng vang, từ việc chiếm đóng Quebec đến giải phóng Kuwait. Nhưng rốt cuộc đã không được nhớ đến vì chúng không làm thay đổi tâm trạng chủ yếu của xã hội. Sự nhiệt tình cao, tính kiên nhẫn thấp.

Những cuộc chiến trong thời kỳ Khủng hoảng đều lớn, chết chóc, và mang tính quyết định. Sự quyết tâm của hậu phương phù hợp với tầm nhìn của giới lãnh đạo lớn tuổi, và kết quả đã hoàn toàn định nghĩa lại vương quốc, quốc gia, hay đế chế.

Liệu nhịp điệu của saeculum có tạo nên một cuộc chiến lớn không thể tránh khỏi? Không ai biết được. Một thời kỳ Thức tỉnh không đòi hỏi một cuộc chiến. Cũng không phải, có lẽ thời kỳ Khủng hoảng thì có, dù cho mỗi Bước chuyển Thứ tư kể từ thế kỷ 15 đều lên đến đỉnh điểm trong một cuộc chiến tổng lực. Lịch sử chỉ dạy rằng bất kỳ cuộc chiến nào xảy ra đều luôn tái hiện tâm trạng của bước chuyển hiện thời. Những cuộc chiến trong Bước chuyển Thứ tư tìm ra định nghĩa bao trùm nhất có thể và đều tranh đấu đến khi có những kết quả rõ ràng. Điều này cho thấy, nếu Nhật Bản không tấn công Trân Châu cảng, Mỹ cũng sẽ tìm ra một số hành động khiêu khích khác để tuyên chiến toàn diện chống lại các cường quốc phe Trục. Không thể biết rõ liệu điều đó có dẫn đến một kết quả tồi tệ hơn hoặc một chiến thắng tốt đẹp hơn (nếu không có sự nhượng bộ tại Yalta). Saeculum không đảm bảo kết quả tốt hay xấu.

saeculum đúng ở một mức độ nào đó trong thế giới hiện đại, nên nó có thể nói điều gì đó về chuyện khi nào Mỹ có thể gặp loại đồng minh hoặc đối thủ nước ngoài nào.  Ngay sau Cách mạng Mỹ, một nền cộng hòa Mỹ non trẻ có lẽ đã may mắn vì Cựu Thế giới hoàn toàn đắm chìm trong cuộc khủng hoảng, thời đại cách mạng của chính nó. Cũng có thể nói điều tương tự về thập niên 1860: Trong khi Mỹ chìm trong Nội chiến, châu Âu và Nhật Bản cũng bận rộn với các cuộc chiến riêng để xây dựng nước nhà.

Thế chiến I dù chỉ lướt qua Mỹ trong khi làm châu Âu kiệt quệ, nhưng cũng đã có một số dấu hiệu quan trọng cho thấy một cuộc xung đột vào thời kỳ Tan rã đối với tất cả các bên tham gia. Nó bắt đầu một cách vô nghĩa, kết thúc trong hận thù, và dù khiến rất nhiều người chết – chẳng giải quyết được gì. Đối với Mỹ, hậu quả chính của nó là đã định hình (trong Thế hệ Lạc lõng vượt Đại Tây Dương của những người lính bị chiến tranh tàn phá) một lực lượng lãnh đạo mới của chế độ toàn trị mà sẽ lại giáp mặt lực lượng Mỹ lần nữa. Adolf Hitler, Benito Mussolini, Hideki Tōjō, và Francisco Franco đều trong độ tuổi từ 21 đến 31 vào tháng 8 năm 1914, ngang tuổi với Mao Trạch Đông. Không phải tình cờ mà Thế chiến II đã nổ ra ở Bước chuyển Thứ tư của Mỹ. Sự nổi lên của chủ nghĩa phát xít rất cần saeculum ăn khớp với lịch sử châu Âu.

V-E Day, V-J Day, và sự thiết lập Bức màn Sắt là những sự kiện lớn của Bước chuyển Thứ tư gần như trên toàn thế giới. Như vậy, sau Thế chiến II, quãng thời gian của saeculum giữa các xã hội khác nhau có thể được đồng bộ tốt hơn bao giờ hết trong lịch sử hiện đại. Hôm nay, các nhóm nguyên mẫu trên toàn thế giới cho thấy những sự tương đồng nổi bật.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019