Hội nghị thượng đỉnh năm 1989: Nhật Bản thỏa hiệp với từng nước để bảo vệ Trung Quốc
Tài liệu ngoại giao được công bốcho biết Nhật Bản đã có những động thái mang tính thỏa hiệp với các nước nhằm đưa vào tuyê bố chính trị của hội nghị thượng đỉnh những lời lẽ ôn hòa hơn khi chỉ trích Chính phủ Trung Quốc.
Pháp, nước chủ trì hội nghị ngày 4/7, cho rằng Chính phủ Trung Quốc đã có hành động đàn áp và hành quyết dã man. Nước này cũng kiến nghị với 4 nước châu Âu khác về các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, Nhật Bản lại có ý không chấp nhận các biện pháp trừng phạt nhằm vào Trung Quốc và khẳng định phương châm cơ bản là không nên đề cập đến điều này. Theo Nhật Bản, các nước nên cố gắng thể hiện lập trường cứng rắn, nếu họ thực sự muốn vậy, theo một cách trừu tượng nhất có thể.
Hơn nữa, Nhật Bản cũng tiếp cận và trao đổi riêng với từng nước về cách thức thể hiện ngôn từ trong tuyên bố chính trị trên cơ sở không chỉ trích nặng nề Trung Quốc và không đề cập đến trừng phạt nước này.
Tại cuộc thảo luận cấp chuyên viên diễn ra vào ngày 7/7, Nhật Bản lúc đầu cho rằng không cần thiết phải có một tuyên bố đặc biệt, trong khi tất cả các bên tham gia còn lại đều chor ằng tuyên bố chính trị là cần thiết. Sau đó, Nhật Bản yêu cầu thể hiện một cách trừu tượng nhất có thể các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ lại cho rằng điều này là không thể, trong khi Tây Đức nhấn mạnh rằng một tuyên bố không đề cập đến các biện pháp trừng phạt cụ thể là một tuyên bố vô nghĩa.
Do đó, trong cuộc thảo luận giữa những người phụ trách đàm phán Nhật – Mỹ ngày 11/7, Nhật Bản kiến nghị tuyên bố nên chỉ rõ rằng các biện pháp trừng phạt Trung Quốc chỉ là một giải pháp thỏa hiệp chứ không có ý cô lập Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ phản đối quan điểm đó bằng lập luận hành động này sẽ làm giảm uy lực của tuyên bố.
Ngày 14/7, tức một ngày trước khi tuyên bố chính trị được thông qua, Thủ tướng Nhật Bản Uno đã có cuộc trao đổi riêng với người phụ trách đàm phán phía Pháp Jacques Attali. Ông nói: “Chúng ta cần thúc đẩy cải cách chứ không phải cô lập Trung Quốc”. Jacques Attali đáp lại: “Đó là một cụm từ thông minh và không có vấn đề gì”.
Trong hội nghị ngày 15/7, Thủ tướng Nhật Bản Uno cho biết: “Điều quan trọng chúng ta cần ghi nhớ là Turng Quốc hiện nay là một Trung Quốc “yếu”. Lịch sử Trung Quốc chot hấy khi “yếu” Trung Quốc sẽ thể hiện thái độ bài ngoại vô cùng mạnh mẽ. Do đó, khi công khai tuyên bố chính trị cần hết sức cẩn trọng để không kích động tinh thần dân tộc của người dân Trung Quốc và không nên kích động thái độ cứng rắn của họ”.
Do đó, Tuyên bố cuối cùng đã phản ánh được lập trường quan điểm của Nhật Bản khi nêu rõ: “tạo điều kiện tránh cô lập Trung Quốc và để Trung Quốc mở lại các hoạt động hướng tới cải cách mở cửa về chính trị, kinh tế, hy vọng tạo điều kiện để sớm khôi phục quan hệ hợp tác sớm nhất có thể”.
Sau sự kiện Thiên An Môn, Thủ tướng Anh lo lắng về tương lai của Hong Kong
Tài liệu ngoại giao vừa được công bố cho biết, tháng 9/1989, 5 năm sau thỏa thuận Anh đồng ý trao trả Hong Kong về Đại lục, Thủ tướng Anh khi đó là Magaret Thatcher đã bày tỏ sự lo ngại về lập trường của Đặng Tiểu Bình và tương lai của Hong Kong sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn.
Cụ thể, ngày 14/9, 5 ngày trước chuyến thăm Nhật Bản, Thủ tướng Thatcher đã trao đổi trong một bữa ăn tối với Đại sứ Nhật Bản tại Anh là Kazuo Chiba rằng: “Khi tôi nói chuyện với Đặng Tiểu Bình, tôi không thể hiểu được pháp luật của Chính phủ Anh sẽ được tuân thủ như thế nào khi Trung Quốc là nước nếu cần có thể thay đổi cả hệ thống pháp luật”, qua đó bày tỏ quan ngại Đặng Tiểu Bình sẽ thống trị Trung Quốc bằng luật pháp.
Sau đó, khi thăm Nhật Bản, trong trao đổi với Bộ trưởng Ngoại giao Taro Nakayama, Thủ tướng Magaret Thatcher tiếp tục đề cập: “Từ kinh nghiệm qua các cuộc nói chuyện với Đặng Tiểu Bình và Triệu Tử Dương, không thể đoán trước rằng sẽ xảy ra sự kiện gây sốc như sự kiện Thiên An Môn, một sự kiện như vậy không bao giờ được xảy ra một lần nữa”. Bà Thatcher nhấn mạnh Hong Kong có 5 triệu dân, nhưng tôi lo lắng một điều tương tự có thể sẽ xảy đến với người dân Hong Kong vào một thời điểm nào đó”.
Giáo sư Đại học Kyushu Takuma Nakajima, chuyên gia về lịch sử ngoại giao thời hậu chiến cho biết, những gì Thủ tướng Thatcher nói khi đó như thể bà đã tiên đoán được tình trạng khủng hoảng tại Hong Kong hiện nay. Rõ ràng cảm nhận của việc Đặng Tiểu Bình sẽ thống trị Trung Quốc bằng luật pháp đã được minh chứng bằng thực tế ngày nay. Đó cũng là một gợi ý rất tốt cho Nhật Bản khi thể hiện quan điểm lập trường đối với Trung Quốc vào thời điểm hiện nay.
Sự kiện Thiên An Môn là gì?
Tên gọi “sự kiện Thiên An Môn” xuất phát từ sự kiện diễn ra tại quảng trường Thiên An Môn ở thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc vào ngày 4/6/1989. Khi đó Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã dùng vũ lực để đàn áp phong trào đấu tranh đòi dân chủ của sinh viên và người dân Trung Quốc. Hậu quả là một số lượng lớn người đã thiệt mạng hoặc bị thương khi binh lính xả súng vào người dân.
Ngày 15/4/1989, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang từ trần. Hồ Diệu Bang được cho là người theo trường phái cải cách và từng bị cách chức trước sự tấn công của phe bảo thủ. Nhân sự kiện này, liên tục trong nhiều ngày, một lượng lớn sinh viên đã tổ chức biểu tình trước quảng trường Thiên An Môn để đòi khôi phục danh dự cho Hồ Diệu Bang, sau đó phong trào đã chuyển hóa thành biểu tình đòi dân chủ.
Tình hình đột ngột thay đổi vào ngày 26/4 khi tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã đăng một bài xã luận coi phong trào đấu tranh của sinh viên là một hành vi bạo loạn. Bài xã luận đã kích động sự phản đối mạnh mẽ và nhanh chóng lan rộng trong giới sinh viên, họ tiếp tục kêu gọi nhà chức trách Trung Quốc phải rút lại quan điểm này. Phong trào không những mở rộng quy mô lên đến hàng triệu người tham gia mà còn có những hành động quá khích.
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận thấy tình hình trở nên nghiêm trọng, đã ra lệnh thiết quân luật đối với thủ đô Bắc Kinh vào ngày 20/5. Sau đó, quân đội trong và xung quanh khu vực quảng trường Thiên An Môn được huy động, trong đêm ngày 3/6 rạng sáng ngày 4/6 đã sử dụng vũ lực để đàn áp biểu tình bằng cách xả súng vào người dân. Hậu quả là nhiều sinh viên đã thiệt mạng vào thời điểm này. Chính phủ Trung Quốc bị chỉ trích khi thông báo số người chết chỉ là 319, nhưng con số thực tế có thể còn cao hơn nhiều.
Nguồn: TLTKĐB – 27/12/2020.