Tiết mục biến mất của tư bản – Phần II


Chuyến du ngoạn của chúng ta vào thế giới của các phòng tập cho thấy rằng ngay cả một công việc kinh doanh mang đậm tính vật chất  – theo nghĩa đen, kinh doanh về tập luyện thể chất – trong vài thập kỷ qua đã trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào những thứ phi vật chất. Đây không phải là câu chuyện về sự thay thế của Internet theo kiểu mà chúng ta đã quen thuộc từ hàng trăm bài viết trên các tạp chí: các phòng tập Gym không được thay thế bằng một ứng dụng như cách các cửa hàng băng đĩa được thay thế bằng Napster, iTunes và Spotify. Phần mềm không thay thế được nhu cầu vận động và tập luyện của con người. Tuy nhiên, công việc kinh doanh đã thay đổi theo hai bộ phận khác nhau. Đối với phần có bề ngoài tương tự như những năm 1970, tức là bản thân phòng tập, đã trở nên hoàn thiện với các hệ thống, quy trình, mối quan hệ và phần mềm. Đây không phải là sự đổi mới về hình thức, mà là sự thay đổi bên trong – giống như một bộ phận cơ thể được cung cấp các dây thần kinh, giúp nó cảm nhận, hoạt động một cách có trật tự và có kiểm soát. Đối với phần kinh doanh mới được thành lập, hiệu quả hoạt động gần như dựa hoàn toàn vào những thứ mà bạn không thể chạm vào.

Trong phần còn lại của bài này, chúng ta sẽ xem xét những thay đổi trong đầu tư và tài sản diễn ra trong lĩnh vực thể hình diễn ra như thế nào trong toàn bộ nền kinh tế và lý do của những thay đổi ấy. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy nghiên cứu kỹ lưỡng hơn xem đầu tư thực sự là gì.

Đầu tư, tài sản, tư bản là gì?

Khi chúng ta xem xét những thứ mà các phòng tập Gym đã mua hoặc phát triển để vận hành và kinh doanh, chúng ta đang nói về tài sản và đầu tư. Đầu tư rất quan trọng đối với các nhà kinh tế học vì nó tạo nên thứ mà họ gọi là “tổng tư bản” (hoặc “tổng vốn”) của nền kinh tế: các công cụ và thiết bị mà người lao động sử dụng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ, tạo nên sản lượng kinh tế.

Nhưng “đầu tư”, “tài sản” và “tư bản” có thể là những thuật ngữ khó hiểu. Trước hết, hãy cùng xem xét “đầu tư”. Các nhà báo tài chính thường gọi những người mua và bán chứng khoán là các “nhà đầu tư” và dự đoán một cc1h đầy lo ngại về “tâm trạng của nhà đầu tư”. Cũng nhà báo ấy có thể gọi một nhà tài phiệt dài hạn như Warren Buffett là “nhà đầu tư” và các đối thủ ngắn hạn của ông ta là “nhà đầu cơ”. Người nào đó đang cân nhắc việc vào đại học có thể nhận được lời khuyên rằng “giáo dục là khoản đầu tư tốt nhất mà bạn có thể thực hiện”.

Các thuật ngữ “tài sản” và “tư bản” (“vốn”) cũng được sử dụng theo nhiều cách khó hiệu. Trong cuốn sách nối tiếng Tư bản trong thế kỷ XXI, Thomas Piketty (2014) đã định nghĩa tư bản là “tất cả các dạng của cải mà các cá nhân… có thể sở hữu”. Những nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa Marx nhắc đến “tư bản” không chỉ như một khái niệm kế toán, mà còn đại diện cho toàn bộ một hệ thống bóc lột. “Tài sản” cũng có các định nghĩa khác nhau. Nhiều công ty coi tài sản kinh doanh của họ là kho, xưởng, nhà máy và thiết bị của họ. Đối với một kế toán viên, tài sản kinh doanh lại thường bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng của công ty và các hóa đơn mà khách hàng chưa thanh toán, tức là không phải máy móc được sử dụng trong sản xuất kinh doanh mà là kết quả của hoạt động kinh doanh đó.

Do sự đa đạng về định nghĩa này và vì chúng ta sẽ thường xuyên nhắc đến các thuật ngữ trên, nên sẽ rất hữu ích khi thiết lập các định nghĩa cho “đầu tư”, “tư bản” và “tài sản”. Chúng ta sẽ tuân thủ định nghĩa của đầu tư đã được thống nhất trên quốc tế và được các cơ quan thống kê trên thế giới sử dụng khi đo lường hiệu quả hoạt động của các nền kinh tế quốc gia. Định nghĩa này có lợi thế là được chuẩn hóa, đúc kết từ nhiều nghiên cứu và được liên kết trực tiếp với các số liệu như GDP mà chúng ta thường thấy trong các bản tin thời sự.

Theo Hệ thống Tài khoản Quốc gia của Liên hợp quốc, cuốn kinh thánh của kế toán quốc gia, “đầu tư là những gì xảy ra khi một nhà sản xuất mua một tài sản cố định hoặc sử dụng nguồn lực (tiền bạc, công sức, nguyên vật liệu) để cải thiện nó”. Đây là một khái niệm khá chung chung, hãy cùng phân tích rõ hơn.

Thứ nhất, hãy xem định nghĩa về tài sản. Tài sản là một nguồn lực kinh tế được kỳ vọng sẽ mang lại lợi ích trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu một ngân hàng mua một máy chủ mới hoặc một tòa nhà văn phòng mới, thì ngân hàng đó sẽ thu được lợi ích kéo dài trong một thời gian – chắc chắn nhiều hơn một năm. Nếu họ thanh toán hóa đơn tiền điện hàng quý, lợi ích sẽ kéo dài trong ba tháng. Vì vậy, máy chủ và tòa nhà là tài sản, nhưng điện hay chi phí bỏ ra để thanh toán hóa đơn tiền điện thì không phải tài sản.

Thứ hai, hãy xem xét từ cố định. Tài sản cố định là tài sản được hình thành từ việc sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất. Ví dụ, một chiếc máy bay, một chiếc ô tô hay một bằng sáng chế thuốc đều phải được sản xuất ra – ai đó phải lao động để tạo ra nó. Điều này có thể phân biệt với một tài sản tài chính, giống như cổ phần trong một công ty đại chúng. Cổ phần của chủ sở hữu không được tạo ra (ngoại trừ theo nghĩa tầm thường rằng số cổ phiếu được in ra để đại diện cho số cổ phần nắm giữ bởi các cổ đông). Điều này có nghĩa là khi các nhà kinh tế nói về đầu tư, họ không nói về việc đầu tư theo nghĩa tài chính cá nhân, tức là mua cổ phiếu và cổ phần. Và bởi vì họ đang nói về tài sản cố định nên họ không nói về khái niệm kế toán như tiền trong tài khoản ngân hàng của công ty.

Thứ ba, hãy xem xét việc sử dụng các nguồn lực. Để được coi là một khoản đầu tư, doanh nghiệp thực hiện đầu tư phải mua được tài sản từ một đơn vị khác hoặc phải phát sinh các chi phí để tự sản xuất ra nó.

Cuối cùng, hãy xét đến từ nhà sản xuất. Hệ thống Tài khoản Quốc gia đo lường sản xuất của các doanh nghiệp, chính phủ hoặc ngành dịch vụ. Sản xuất của các hộ gia đình (ví dụ, giặt giũ hoặc nấu ăn tại nhà) không được bao gồm trong thuật ngữ trên, và do đó, đầu tư của hộ gia đình vào máy giặt hay bếp cũng không thể coi là một khoản đầu tư. Đây là một đặc điểm mang tính khái niệm của tài khoản quốc gia, và cũng chính là một trong những lý do khiến mọi người chỉ trích GDP (vì nó loại trừ một bộ phận lớn của nền kinh tế mà trước đây được điều hành chủ yếu bởi phụ nữ). Có lẽ một ngày nào đó “sản xuất” sẽ có một định nghĩa rộng hơn trong các tài khoản quốc gia; vì chúng tôi tin rằng hầu hết những thay đổi mà chúng tôi mô tả này đều có thể áp dụng cho cả hộ gia đình cũng như cho những người được coi là nhà sản xuất.

Vì vậy, khi chúng ta nói về “đầu tư”, chúng ta không nói về việc mua hoặc bán các mảnh giấy trên thị trường chứng khoán hay việc các hộ gia đình trả học phí đại học. Thay vào đó, chúng ta đang nói về chi tiêu của doanh nghiệp chính phủ hoặc ngành dịch vụ nhằm tạo ra tài sản cố định (tức là phi tài chính), tức là các nguồn lực được chi tiêu để tạo ra một chuỗi dịch vụ sản xuất lâu dài. Chúng tôi sẽ gọi một tài sản cố định cung cấp các dịch vụ sản xuất lâu dài này là “tư bản” (hoặc “vốn”). Bởi vì cả tư bản và lao động đều tạo ra các dịch vụ sản xuất như vậy, nên các nhà kinh tế học gọi chúng là “các yếu tố sản xuất”.

Không phải tất cả các khoản đầu tư đều là thứ bạn có thể chạm vào

Một trong những ví dụ về khoản đầu tư trong phần nêu trên là bằng sáng chế thuốc, chẳng hạn như một bằng sáng chế thuộc sở hữu của một công ty dược phẩm. Công ty dược ấy rõ ràng là một nhà sản xuất, không phải hộ gia đình; công ty phải sử dụng các nguồn lực để sản xuất hoặc mua lại bằng sáng chế đó; bằng sáng chế phát sinh từ quá trình sản xuất – trong trường hợp này là công việc của các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm – và nếu họ thành công trong quá trình sản xuất, thì bằng sáng chế đó sẽ có giá trị lâu dài, vì công ty có thể phát triển nó để sử dụng trong tương lai và có thể bán thuốc dựa trên nó. Bằng sáng chế là một ví dụ về tài sản vô hình, được tạo ra bởi một quá trình đầu tư vô hình. Các tài sản khác nhau trong câu chuyện phòng tập cũng vậy, từ phần mềm dành cho hội viên của phòng tập đến thương hiệu Les Mills International’s Bodypump. Chúng sinh ra từ một quá trình sản xuất, được các nhà sản xuất mua lại hoặc cải tiến và mang lại lợi ích theo thời gian.

Những loại hình đầu tư này có thể được tìm thấy trong toàn bộ nền kinh tế. Giả sử một nhà sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời nghiên cứu và phát hiện ra một quy trình sản xuất tế bào quang điện rẻ hơn; nghĩa là hiện tại họ đang phải trả chi phí để tạo ra lượng tri thức mà họ mong đợi sẽ được hưởng lợi trong tương lai. Hoặc xem xét một công ty khởi nghiệp âm nhạc trực tuyến dành hàng tháng trời để thiết kế và đàm phán thỏa thuận với các hãng thu âm để cho phép công ty sử dụng những bài hát của chính các hãng  thu âm ấy – một lần nữa, chi phí ngắn hạn để tạo ra lợi nhuận dài hạn. Hoặc trường hợp một công ty đào tạo trả tiền cho quyền lâu dài để thực hiện một bài kiểm tra tâm lý phổ biến: đó cũng là đầu tư.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jonathan Haskel & Stian Westlake – Chủ nghĩa tư bản không có tư bản – NXB CTQG 2021

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s