Những nỗ lực của Liên bang để nhấc lồng kính đi
Giữa cuộc tranh luận về vụ Green với Biddle, Andrew Jackson, một anh hùng của cuộc Chiến tranh 1812 chống Anh và một người ủng hộ lớn tiếng của những người tiên phong, gần như đã thắng cử tổng thống. Bốn năm sau, cuối cùng Jackson trở thành tổng thống. Trong hai nhiệm kỳ chính quyền của ông, do các tiêu chuẩn trước đó về tài sản để được đi bầu và ứng cử vào chức vụ chính trị đã biến mất, do các trường công đã tăng nhanh, do các bang đã làm cho các luật hình sự có tính nhân văn và đóng cửa các nhà giam người mắc nợ, sự đồng cảm với các quyền của những người chiếm đất tăng lên. Sự oán hận đối với các thẩm phán và các luật sư cũng vậy, những người được nhìn nhận như những đặc vụ hăm hở của những người giàu và quyền thế.
Đến năm 1830, 13 bang đầu tiên đã thành 24 bao gồm 7 bang ở miền Tây mà những người đại diện của họ ở Washington đã hoàn toàn cam kết cho các chính sách bênh vực những người chiếm đất. Để được sự ủng hộ của khối ngày càng có ảnh hưởng này, các bang miền Bắc và miền Nam đã tranh đua nhau để tỏ ra mình ủng hộ miền Tây ra sao. Các bang miền Tây và những người chiếm đất chi phối vùng đất này bắt đầu biểu lộ sức mạnh chính trị ngày càng tăng của mình, và kết quả thật ấn tượng. Giữa những năm 1834 và 1856 tất cả các bang Missouri, Alabama, Arkansas, Michigan, Iowa, Mississippi, Wiscosin, Minnesota, Oregon, Kansas, và California đều đã chấp nhận luật chiếm hữu tương tự như luật của Kentucky đã bị Tòa án Tối cao từ chối trong vụ Green với Biddle. Paul Gates lập luận rằng “chẳng có vụ nào quyết định bởi Tòa án Tối cao lại bị lật lại hoàn toàn như vậy bởi các cơ quan lập pháp và tòa án bang, bởi sự thất bại của các tòa án liên bang trong sử dụng vụ kiện, và cuối cùng bởi đạo luật không bị bác bỏ của Quốc hội cho phép mở rộng phạm vi của các tòa án liên bang đối với những người chiếm hữu, như vụ Green với Biddle.
Washington cuối cùng bắt đầu nhận ra thông điệp. Trong khi vào năm 1806, Ủy ban Đất đai Công cộng đã trách móc những kẻ chiếm đất về sự gian khổ của họ, thì đến 1828 cũng chính Ủy ban ấy đã báo cáo cho Hạ nghị viện rằng người Mỹ chiếm đất đã thực hiện một dịch vụ công ích có giá trị và vì việc ấy anh ta đáng được đền bù. Kẻ chiếm đất khiếp đảm một thời nay đã thành một người “do tính táo bạo và siêng năng của mình đã tạo cho bản thân và gia đình mình một chỗ ở giữa nơi hoang vu, [và] phải có quyền được thưởng công. Anh ta đã cung cấp các phương tiện cho việc bán đất công, và đưa đất đai vào cạnh tranh, những khoảnh đất mà nếu không sẽ chẳng đáng giá và như thế sẽ chẳng có ai mua, nếu không có sự cải thiện của anh ta”.
Các nghị sĩ bắt đầu dự thảo luật pháp để giúp những dàn xếp của những người nhập cư được hấp thu dễ dàng và hệ thống pháp luật. Cốt lõi của nó là công cụ pháp lý, là sự cứu rỗi của những người chiếm đất trong thời kỳ thuộc địa (và là cái mà Quốc hội Hoa Kỳ đã chống đối một cách cứng rắn) – quyền ưu tiên mua trước. Năm 1830, một liên minh giữa các nghị sĩ miền Tây và miền Nam đã thông qua một đạo luật chung được áp dụng “cho mọi người định cư hoặc người chiếm hữu đất công… những người hiện đang chiếm giữ, và canh tác bất kể phần đất nào, trong năm 1829”. Một người chiếm đất có thể yêu cầu 160 mẫu đất, bao gồm cả đất do anh ta cải thiện, với giá 1,25 USD một mẫu. Cần phải thanh toán trước khi đất được đưa ra bán đấu giá công khai, và việc chuyển nhượng hoặc bán quyền ưu tiên mua trước bị cấm nghiêm ngặt.
Các năm 1832, 1838 và 1840, Quốc hội đã đổi mới luật chung về quyền ưu tiên mua trước của năm 1830. Mỗi lần luật lại cố gắng củng cố thêm các quyền của người chiếm đất thấp nhất, trong khi cố gắng ngăn cản một số lạm dụng nguyên tắc quyền ưu tiên mua trước. Thí dụ, đạo luật năm 1832 đã hạ mức đất tối thiểu mà một người chiếm đất phải mua từ 160 mẫu xuống 40 mẫu.
Vào năm 1841, nguyên tắc quyền ưu tiên mua trước đã được xác lập vững chắc đến mức Quốc hội thông qua một luật chung về quyền ưu tiên mua trước trong tương lai. Đạo luật 1841 không chỉ bao gồm những người chiếm đất hiện thời mà cả “mọi cá nhân… người từ nay sẽ tiến hành định cư trên đất công”. Đất được định cư phải được đo đạc, nhưng thậm chí điều khoản này cuối cùng cũng đã bị đánh đổ.
Những nỗ lực ngoài pháp luật để nhấc lồng kính đi
Thường bị cô lập về mặt địa lý khỏi các cuộc tranh luận chính trị và hiến pháp về quyền sở hữu, nhiều người chiếm đất đã làm mọi thứ mà họ có để bảo đảm cho đất mà họ đã chiếm; một số thậm chí đã trả tiền hai lần cho cùng một miếng đất, trong khi những người khác đã trả các khoản phí lớn cho các luật sư để họ giúp làm cho đất của mình hợp pháp. Nhiều người không có đủ tiền trả cho các chi phí của hệ thống pháp lý chính thức, vì thế họ đã thiết lập những thỏa thuận ngoài pháp luật của riêng mình, do vậy tạo ra các hành lang mới để tiếp cận và chiếm giữ đất đai ở khu vực biên giới Mỹ. Trên thực tế, họ đã nắm lấy luật vào trong tay riêng của họ – và đã buộc các thế lực pháp luật phải theo sự dẫn dắt của họ. Mất một thời gian trước khi các nhà chính trị thức tỉnh bởi sự thực rằng, bên cạnh luật chính thức, các khế ước xã hội ngoài pháp luật về quyền sở hữu đã hình thành và chúng tạo thành một phần quan trọng của hệ thống quyền sở hữu quốc gia. Để thiết lập một hệ thống pháp lý toàn diện có thể thực thi trên toàn quốc gia, họ phải bắt kịp cách mà người dân đã định nghĩa, sử dụng, và phân phối các quyền sở hữu.
Hai thí dụ quan trọng được dùng để minh họa cho sự nổi lên của các tổ chức ngoài pháp luật nhằm bảo vệ các quyền sở hữu đã đạt được một cách phi chính thức: các hiệp hội đòi quyền [yêu sách] đất đã nảy nở khắp Trung Tây Mỹ trong nửa đầu của thế kỷ XIX, và các khu khai mỏ tràn ngập miền Tây nước Mỹ sau khi phát hiện ra vàng ở California. Đối với nhiều sử gia Mỹ, các hiệp hội đòi quyền đất và các quy chế khai mỏ đã biểu hiện năng lực của những người ở khu vực biên giới đối với hoạt động dân chủ”. Những người khác lập luận rằng các tổ chức này hoạt động “như một màn khói che lấp việc ăn cắp đất của những người chủ thành thật”. Đó không phải là cuộc tranh luận của tôi. Cái tôi quan tâm về các hiệp hội đòi quyền đất và các tổ chức khai mỏ là chúng chỉ ra rằng, các nhóm ngoài pháp luật đã đóng một vai trò quan trọng trong xác định các quyền sở hữu ở Hoa Kỳ và trong việc làm tăng giá trị cho đất. Mặc dù về mặt kỹ thuật họ là những người lấn chiếm đất công, những người mà theo lời của sử gia Donald Pisani, có “đầu óc luật được bén rễ với niềm tin rằng… ‘người dân’ có một quyền lớn hơn để định nghĩa và lý giải các quy tắc so với các chuyên gia pháp lý”. Để đạt mục đích này, các tổ chức ngoài pháp luật đã thực hiện một loạt các chức năng, từ đàm phán với chính phủ để đăng ký các tài sản và các quyền sở hữu mà những người chiếm đất đòi hỏi.
Các hiệp hội đòi quyền đất
Các hiệp hội đòi quyền đất ở Trung Tây Mỹ ban đầu được lập ra bởi những người định cư để bảo vệ các quyền của họ chống lại những kẻ đầu cơ và những kẻ nhảy dù đòi quyền đất. Hai hiệp hội ở Iowa, thí dụ, đã thống nhất trong các điều lệ của mình để bảo vệ đòi hỏi về đất của các thành viên cho một giai đoạn hai năm sau khi bán đất. Allan Bogue lưu ý rằng “người chiếm đất có thể hy vọng các bạn hữu của mình trong câu lạc bộ sẽ giúp mình nếu những kẻ nhảy dù đe dọa ruộng đất của anh ta và… các bạn của anh ta sẽ hăm dọa những kẻ đầu cơ có thể tìm cách trả giá cao hơn anh ta khi bán giá đất công khai”. Một nhà sử học địa phương Iowa đã ghi lại rằng “khi một người định cư thật sự – người muốn có một miếng đất để ở và để chiếm hữu ngay… định cư trên một phần đất [của hiệp hội], anh ta ngay lập tức bị chó săn tấn công, và được yêu cầu hoặc phải từ bỏ đòi hỏi [đất] hoặc phải trả tiền cho họ cái mà họ cho rằng là quyền của họ”. Nếu “người định cư tỏ ra nghi ngờ về việc họ đã chiếm đất trước đây, thì [hiệp hội] luôn luôn sẵn có một hay nhiều nhân chứng để chứng nhận sự hợp lệ của quyền lợi mà họ đã khẳng định”.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – SCDRC
Nguồn tham khảo: Hernando de Soto – Bí ẩn của vốn – NXB CTQG 2016